BÀI VIẾT MỚI

Minh Phương

Minh Phương

VỀ BIỂN NGHE TIẾNG SÁO MÔNG - Thơ của Đới Xuân Cường – Hội văn học nghệ thuật Lai Châu

Thơ của Đới Xuân Cường – Hội văn học nghệ thuật Lai Châu – Sáng tác tại Nhà sáng tác Vũng Tàu tháng 7/2020

VỀ BIỂN NGHE TIẾNG SÁO MÔNG
 
           Về với biển chợt nghe tiếng sáo mông
           Ngỡ rừng trúc reo lưng đèo thơ mộng
           Vi vút ngàn xanh tâm hồn biển rộng
           Tiếng biển, tiếng rừng dậy sóng sườn non.
 
           Trong thâm sâu, rừng chờ biển héo hon
           Khi mặn mòi, biển khát rừng vời vợi
           Ta giang tay, ôm bến bờ réo gọi
           Biển xanh ơi! ta khát vọng thanh bình
 
           Ta muốn tìm ta trong kiếp hồi sinh
           Và có em trong biển tình mong nhớ
           Cho biển với rừng cùng chung nhịp thở
           Như thuyền tình cập bến đỗ bình yên.

Bế mạc Trại sáng tác văn học Công nhân lần thứ 4 tại Đại Lải

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ: "Tập hợp, bồi dưỡng đội ngũ tác giả viết về công nghiệp, công nhân và người lao động; để có nhiều tác phẩm giá trị phục vụ công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước", được sự hỗ trợ tổ chức của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật, từ ngày 13 tháng 7 đến ngày 27 tháng 7 năm 2020, Ban Văn học Công nhân Hội Nhà văn Việt nam đã tổ chức Trại sáng tác Văn học Công nhân lần thứ 4 cho tác giả các tỉnh từ Thanh Hóa trở ra phía Bắc, tại Nhà sáng  tác Đại Lải.

Về dự trại có 15 tác giả là Hội viên Hội Nhà văn, hội viên Hội văn nghệ các tỉnh, tác giả của các Khu công nghiệp. Những tác giả này đều đã có đầu sách in riêng và từng được nhận các giải thưởng về sáng tác văn học trong đời sống công nhân.

Dự buổi bế mạc Trại sáng tác có ông Phạm Ngọc Chiểu – Trưởng Ban văn học Công nhân; ông Nguyễn Thạch Tâm – Phó Giám đốc Nhà sáng tác Đại Lải và toàn thể tác giả tham dự trại viết.

bemacvhcongnhant7 2020

Ông Phạm Ngọc Chiểu thay mặt Ban tổ chức Trại đã báo cáo tổng kết trại sáng tác. Dự Trại sáng tác Văn học Công nhân, các tác giả đều đã có đề cương sáng tác được chuẩn bị chu đáo. Với tinh thần lao động miệt mài, nghiêm túc và sáng tạo, các tác giả dự Trại sáng tác Đại Lải thu được kết quả rất đáng ghi nhận. Tiêu biểu như tập thơ “Nghe mưa” của Hà Phạm Phú với 120 bài thơ; truyện ngắn “Thần rừng” của Cầm Sơn; tiểu thuyết “Con đường đầy cỏ lạ hoa thơm” của Phạm Ngọc Chiểu; bài ký sự “Biển buồn” của Nguyễn Khánh Hội…

Đồng thời ông Phạm Ngọc Chiểu cũng đã có lời cảm ơn chân thành sự quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi của Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật; sự tiếp đón ân cần và chu đáo của cán bộ, nhân viên Nhà sáng tác Đại Lải đã đóng góp rất nhiều cho sự thành công của Trại sáng tác văn học Công nhân lần này.

Ông Nguyễn Thạch Tâm đã thay mặt Nhà sáng tác Đại Lải chúc mừng thành công của Trại sáng tác và nhấn mạnh Nhà sáng tác Đại Lải sẽ luôn rộng mở chào đón các văn nghệ sỹ, tạo không gian thuận lợi để chắp cánh các tác giả  có được những tác phẩm hay, chất lượng cống hiến cho bạn đọc và xã hội.

Kết thúc Trại sáng tác, 15 tác giả đã hoàn thành 174 tác phẩm, trong đó: 156 tác phẩm thơ, 10 truyện ngắn, 3 truyện thiếu nhi, 3 ký sự, 2 tiểu thuyết.

KẾT QUẢ TRẠI SÁNG TÁC – BAN VĂN HỌC CÔNG NHÂN
HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM
(13/7/2020 - 27/7/2020)
 
           
Họ và tên                            văn nghệ sĩ Dân tộc Giới tính Số lượng tác phẩm Loại hình văn học nghệ thuật Tên tác phẩm
Phạm Ngọc Chiểu Kinh Nam 1 Tiểu thuyết Con đường đầy cỏ lạ hoa thơm
Nguyễn Đức Sơn (Cầm Sơn) Kinh Nam 3 Truyện ngắn  Thần rừng
Chuyện của Dín
Kỷ niệm xanh
Nguyễn Quang Thuyên Kinh Nam      
Đỗ Bảo Châu Kinh Nam 2 Truyện ngắn Trong sương chiều Đại Lải
Dòng tin nhắn
Trịnh Công Lộc Kinh Nam 3 Thơ Cùng bạn tôi
Gửi mát cho dòng sông
Trăng mặt trời
Tạ Quang Bảo (Tạ Bảo) Kinh Nam 1 Tiểu thuyết Phần 2 tiểu thuyết: Họ ta ở làng Giấy
Phạm Minh Hằng Kinh Nam 2 Truyện ngắn Bao công đời nay
Người mang hai họ
Hà Phạm Phú Kinh Nam 120 Thơ Tập thơ: Nghe mưa (120 bài)
Phạm Trọng Thanh Kinh Nam 13 Thơ Chùm thơ 13 bài
Nguyễn Thị Kim Ngân Kinh Nữ 11 Thơ Chùm thơ 11 bài
Trần Dũng Tày Nam 3 Truyện thiếu nhi Đánh gậy
Phan Mai Hương Kinh Nữ 1 Nhật ký hải trình nhà giàn
Nguyễn Khánh Hội Kinh Nam 1 Biển buồn
1 Truyện ngắn Đường đến đảo Vân
6 Thơ  
 
 
 
 
 
Đinh Đức Cường Kinh Nam 1 Miên man miền dã quỳ
2 Truyện ngắn Hoa trứng gà
Đi buôn
Lê Văn Sự Kinh Nam 3 Thơ Một thoáng Đại Lải
Viết ở đầm An Sinh
Sửa trường ca: Huyền thoại Đốn Sơn

Bế mạc Trại sáng tác văn học Công nhân lần thứ 4 tại Đại Lải

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ: "Tập hợp, bồi dưỡng đội ngũ tác giả viết về công nghiệp, công nhân và người lao động; để có nhiều tác phẩm giá trị phục vụ công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước", được sự hỗ trợ tổ chức của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật, từ ngày 13 tháng 7 đến ngày 27 tháng 7 năm 2020, Ban Văn học Công nhân Hội Nhà văn Việt nam đã tổ chức Trại sáng tác Văn học Công nhân lần thứ 4 cho tác giả các tỉnh từ Thanh Hóa trở ra phía Bắc, tại Nhà sáng  tác Đại Lải.

Về dự trại có 15 tác giả là Hội viên Hội Nhà văn, hội viên Hội văn nghệ các tỉnh, tác giả của các Khu công nghiệp. Những tác giả này đều đã có đầu sách in riêng và từng được nhận các giải thưởng về sáng tác văn học trong đời sống công nhân.

Dự buổi bế mạc Trại sáng tác có ông Phạm Ngọc Chiểu – Trưởng Ban văn học Công nhân; ông Nguyễn Thạch Tâm – Phó Giám đốc Nhà sáng tác Đại Lải và toàn thể tác giả tham dự trại viết.

bemacvhcongnhant7 2020

Ông Phạm Ngọc Chiểu thay mặt Ban tổ chức Trại đã báo cáo tổng kết trại sáng tác. Dự Trại sáng tác Văn học Công nhân, các tác giả đều đã có đề cương sáng tác được chuẩn bị chu đáo. Với tinh thần lao động miệt mài, nghiêm túc và sáng tạo, các tác giả dự Trại sáng tác Đại Lải thu được kết quả rất đáng ghi nhận. Tiêu biểu như tập thơ “Nghe mưa” của Hà Phạm Phú với 120 bài thơ; truyện ngắn “Thần rừng” của Cầm Sơn; tiểu thuyết “Con đường đầy cỏ lạ hoa thơm” của Phạm Ngọc Chiểu; bài ký sự “Biển buồn” của Nguyễn Khánh Hội…

Đồng thời ông Phạm Ngọc Chiểu cũng đã có lời cảm ơn chân thành sự quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi của Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật; sự tiếp đón ân cần và chu đáo của cán bộ, nhân viên Nhà sáng tác Đại Lải đã đóng góp rất nhiều cho sự thành công của Trại sáng tác văn học Công nhân lần này.

Ông Nguyễn Thạch Tâm đã thay mặt Nhà sáng tác Đại Lải chúc mừng thành công của Trại sáng tác và nhấn mạnh Nhà sáng tác Đại Lải sẽ luôn rộng mở chào đón các văn nghệ sỹ, tạo không gian thuận lợi để chắp cánh các tác giả có được những tác phẩm hay, chất lượng cống hiến cho bạn đọc và xã hội.

Kết thúc Trại sáng tác, 15 tác giả đã hoàn thành 174 tác phẩm, trong đó: 156 tác phẩm thơ, 10 truyện ngắn, 3 truyện thiếu nhi, 3 ký sự, 2 tiểu thuyết.

KẾT QUẢ TRẠI SÁNG TÁC – BAN VĂN HỌC CÔNG NHÂN
HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM
(13/7/2020 - 27/7/2020)
 
           
Họ và tên                            văn nghệ sĩ Dân tộc Giới tính Số lượng tác phẩm Loại hình văn học nghệ thuật Tên tác phẩm
Phạm Ngọc Chiểu Kinh Nam 1 Tiểu thuyết Con đường đầy cỏ lạ hoa thơm
Nguyễn Đức Sơn (Cầm Sơn) Kinh Nam 3 Truyện ngắn  Thần rừng
Chuyện của Dín
Kỷ niệm xanh
Nguyễn Quang Thuyên Kinh Nam      
Đỗ Bảo Châu Kinh Nam 2 Truyện ngắn Trong sương chiều Đại Lải
Dòng tin nhắn
Trịnh Công Lộc Kinh Nam 3 Thơ Cùng bạn tôi
Gửi mát cho dòng sông
Trăng mặt trời
Tạ Quang Bảo (Tạ Bảo) Kinh Nam 1 Tiểu thuyết Phần 2 tiểu thuyết: Họ ta ở làng Giấy
Phạm Minh Hằng Kinh Nam 2 Truyện ngắn Bao công đời nay
Người mang hai họ
Hà Phạm Phú Kinh Nam 120 Thơ Tập thơ: Nghe mưa (120 bài)
Phạm Trọng Thanh Kinh Nam 13 Thơ Chùm thơ 13 bài
Nguyễn Thị Kim Ngân Kinh Nữ 11 Thơ Chùm thơ 11 bài
Trần Dũng Tày Nam 3 Truyện thiếu nhi Đánh gậy
Phan Mai Hương Kinh Nữ 1 Nhật ký hải trình nhà giàn
Nguyễn Khánh Hội Kinh Nam 1 Biển buồn
1 Truyện ngắn Đường đến đảo Vân
6 Thơ  
 
 
 
 
 
Đinh Đức Cường Kinh Nam 1 Miên man miền dã quỳ
2 Truyện ngắn Hoa trứng gà
Đi buôn
Lê Văn Sự Kinh Nam 3 Thơ Một thoáng Đại Lải
Viết ở đầm An Sinh
Sửa trường ca: Huyền thoại Đốn Sơn

Bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật Quảng Trị 2020 tại Đà Nẵng

Ngày 25/7/2020 Nhà sáng tác Đà Nẵng đã phối hợp với Hội văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị tổ chức bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật năm 2020.

Dự bế mạc có ông Hồ Thanh Thoan - Phó Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị; ông Võ Huỳnh Hữu Trí - Phó giám đốc Nhà sáng tác Đà Nẵng, cùng các thành viên tham gia Trại sáng tác.

bemacquangtrit7 2020

Tại buổi bế mạc, ông Võ Văn Luyến - Trưởng đoàn đánh giá trại sáng tác đã thành công tốt đẹp. Các tác phẩm đã bám sát đề tài, đề cương đăng ký; phản ánh được nhiều mặt đời sống, xã hội trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước hiện nay. Sau 15 ngày tổ chức, trại đã thu nhận được 118 tác phẩm, trong đó bao gồm: 83 tác phẩm chuyên ngành văn học, 02 tác phẩm chuyên ngành sân khấu, 20 tác phẩm chuyên ngành nhiếp ảnh, 04 tác phẩm chuyên ngành mỹ thuật, 04 tác phẩm chuyên ngành âm nhạc, 03 tác phẩm chuyên ngành văn nghệ dân gian và 01 tác phẩm chuyên ngành văn học dân tộc thiểu số. Các tác phẩm này sẽ tiếp tục được Hội văn học nghệ thuật Quảng Trị sàng lọc, chọn ra những tác phẩm có tính khả thi cao để có thể biên tập, hoàn thiện và xuất bản trong thời gian sớm nhất.

Ông Hồ Thanh Thoan đã biểu dương tình thần sáng tạo, thái độ làm việc tích cực của các văn nghệ sĩ, đồng thời cũng cảm ơn sự đón tiếp nồng nhiệt, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các văn nghệ sĩ của Nhà sáng tác Đà Nẵng đã giúp Trại sáng tác thành công tốt đẹp. Ông cũng bày tỏ mong muốn các trại sáng tác được tổ chức thường xuyên để có thêm nhiều tác phẩm hay, chân thực, chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu của bạn đọc trong thời gian tới.

Ông Võ Huỳnh Hữu Trí thay mặt toàn thể cán bộ, nhân viên Nhà sáng tác Đà Nẵng có lời chúc mừng các văn nghệ sỹ Quảng Trị đã tổ chức thành công Trại sáng tác năm 2020, cùng với mong muốn các tác phẩm định hình tại Trại sáng tác lần này sớm được xuất bản, cũng như đến với đông đảo công chúng.

bemacquangtrit7 2020 1

Trại sáng tác diễn ra từ ngày 16/7/2020 đến hết ngày 30/7/2020 với tinh thần đề cao cảnh giác, không lơ là trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19. Kết tinh lao động sáng tạo của Trại sáng tác lần này với sự tham gia của 15 văn nghệ sĩ thuộc hội viên của Hội văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị (05 Văn học, 01 Sân khấu, 02 Nhiếp ảnh, 02 Âm nhạc, 02 Văn nghệ dân gian, 02 Mĩ thuật và 01 Văn học dân tộc thiểu số) là một số lượng các tác phẩm rất đáng khích lệ.

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT TỈNH QUẢNG TRỊ

(16/7-30/7/2020)

             
STT Họ và tên                  văn nghệ sĩ Dân tộc Số lượng tác phẩm Loại hình    văn học    nghệ thuật Tên tác phẩm  
 
 
 
 
1 Võ Văn Luyến Kinh 62 Văn học Tập thơ: Âm tính (62 bài)  
2 Nguyễn Minh Châu Kimh 4 Văn học Những ngôi mộ gió trên đảo Lý Sơn  
Qua đèo Ngang nhớ Bà Huyện Thanh Quan  
Đêm sông Hàn  
Chếnh choáng ngày Xuân phố núi  
3 Hoàng Tấn Trung Kinh 6 Văn học Thăm núi sơn Trà nhớ Trà Sơn Kháng Sớ  
Bên sông Hàn uống rượu với bạn cố tri  
Tổ quốc đang cần một bậc minh quân  
Đôi mắt người phố biển  
Tình biển  
Không đề  
4 Nguyễn Linh Ngọc Kinh 6 Văn học Hẹn ngày trở lại  
Hương tháng bảy  
Thương miền ngày hạ  
Em là hạt nắng  
Giữ lại tháng tư  
Miền quê bất tử  
5 Phan Văn Xung Kinh 2 Mỹ thuật Hoa chuối  
Mưa  
6 Nguyễn Văn Chúc Kinh 2 Mỹ thuật Trái đắng  
Tình quân dân  
7 Lê Đình Cảnh Kinh 10 Nhiếp ảnh Phố cổ  
Nét xưa  
Sông Hàn  
Nhịp điệu công trình  
Về chợ  
Trống hội  
Vũ điệu đường phố  
Nô đùa trong nắng  
Biển Hội An  
Em người xứ Quảng  
8 Hoàng Văn Tân Kinh 10 Nhiếp ảnh Phác họa  
Gia công  
Chăm chút  
Đường lên non nước  
Đài tưởng niệm  
Nhịp điệu làng nghề  
Non nước hữu tình  
Bình minh Ngũ Hành Sơn  
Rồng  
Nhà sáng tác Đà Nẵng  
9 Nguyễn Tiến Hải Kinh 2 Âm nhạc Bến sông quê  
Khúc hát sông Hàn  
10 Trần Kiềm Kinh 2 Âm nhạc Đà Nãng yêu thương  
Dòng sông em hát  
11 Nguyễn Thanh Ngãi Kinh 2 Văn nghệ dân gian Ca Huế: Đà Nẵng ơi  
Dân ca Bình Trị Thiên: Chung một lời thề  
12 Trần Hữu Đạt Kinh 2 Sân khấu- Điện ảnh Đào thải  
Lên đàng  
13 Hồ Văn Phương Kinh 2 Văn học dân tộc thiểu số Tri thức bản địa của dồng bào Pa cô trong khai thác sử dụng sản vật từ rừng  
Văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào Pa Cô- Quảng  Trị  
14 Đậu Trung Thành Kinh 5 Văn học Thành phố tình yêu  
Hoàng Sa ơi  
Hội An  
Về Tân Kỳ đi anh  
Miền đất nhớ  
15 Trương Thi Kinh 1 Văn nghệ dân gian Thần thoại và truyền thống trong văn học dân gian Quảng Trị  
  Tổng cộng   118      

NA - Truyện ngắn của Tạ Ngọc Dũng - Hội văn học nghệ thuật Tuyên Quang

Truyện ngắn của Tạ Ngọc Dũng – Hội văn học nghệ thuật Tuyên Quang – sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 6/2020.

NA
Na tên đầy đủ là Hoàng Thị Na, một cô gái Tày ở bản cạnh bên cái bãi vàng của chúng tôi.
Ngày ấy, thông tin về bãi vàng của chúng tôi có phát hiện ra dấu hiệu của đá quý, do nằm một dải liền với các bãi đá đỏ tên tuổi, từng có những viên đá màu tiết dê giá trị lên cả tỷ.
Thật ra, ở cái đất Lục Yên này, chỗ nào chả có đá đỏ cơ chứ. Cho nên thông tin đó vừa lọt ra, hàng đoàn người đã kéo tới.
Tất nhiên, chúng tôi không đời nào cho họ vào. Những con người đủ các lứa tuổi: Ông già, thanh niên quần áo rách rưới, nước da nhợt nhạt vì nằm hang lâu, từ các bãi khác tới thúc thủ quay đi trước những họng súng lạnh lùng sẵn sàng nhả đạn. Gương mặt họ thất vọng não nề, có người bỏ nhà cửa ra đi với hy vọng đổi đời vài năm trời vẫn chưa đào được viên nào, chút hy vọng cuối cùng của họ bị dập tắt trước những gương mặt dữ tợn, vũ khí lăm lăm trong tay của những tay anh chị mặt vằn vện ngang dọc dấu ấn giang hồ.
Nhưng chúng tôi không thể nào ngăn được những người dân bản. Đất có thổ công, đây là quê họ, không cẩn thận chính chúng tôi sẽ bị quét sạch ra khỏi đây bằng vô vàn họng súng kip và lưỡi dao quắm.
Trong đoàn dân bản vào bới cát tìm đá, có Na.
Nhóm của cô toàn những cô gái Tày xinh có, xấu có, độ tuổi sàn sàn mười lăm, mười sáu như nhau. Người Tày bên Lục Yên này họ ăn mặc đẹp hơn hẳn người Tày quê nhà chúng tôi, có mỗi bộ chàm truyền thống đơn điệu hàng ngày. Chỉ một miếng vải lụa đen cuốn quanh người thành cái váy mà tôi vẫn hy vọng nó bị tuột nút, nhưng quá chắc, kể cả giả vờ vô tình chạm vào giật gấu váy nó cũng không bung ra, áo của họ giống loại bà ba của các cô thôn nữ miệt vườn miền Tây trong Nam, xẻ tà để lộ những mảng trắng nõn bên sườn, màu mè xanh đỏ tím vàng nhộn hết cả mắt.
Những người dân bản hăm hở đến bới tung cả các đống cát bọn tôi đãi xong đổ ra, mãi chả thấy gì họ dần dần rút lui. Thật vậy, bọn tôi thi thoảng có vớ được vài viên sỉ màu đỏ đục, nó đâu phải đá quý. Chỉ còn các cô gái vẫn cần mẫn ngày ngày, hết vụ mùa các cô rảnh, thôi thì coi như đi chơi.
Tuy nhiên, mỗi lo " Đêm dài sợ lắm mộng " khiến các cai bưởng vẫn chưa được yên tâm. Nhỡ họ bới mãi, chỉ cần được viên con con, giá trị thấp thôi, làn sóng người sẽ quay lại. Lúc đó thì nát bãi luôn. Tôi là người được giao nhiệm vụ ngăn chặn các cô gái ấy. Tất nhiên không phải đuổi họ đi rồi.
Vì sao công việc đó lại giao cho tôi? Đơn giản chỉ vì tôi là cháu của trưởng bãi, và tôi trạc tuổi các cô, dễ hơn nếu cho thằng mặt sẹo nào ra làm việc ấy.
Cứ các cô ngồi chỗ nào, tôi sẽ đến bới trước mặt. Nhỡ được viên nào tôi ỉm đi coi như là lọt sáng xuống nia. Mục đích chính để các cô nản.
Nhưng người tính không bằng trời tính, từ khi tôi tiến hành nhiệm vụ đầy vinh quang và hấp dẫn đó, mãi cả tháng không thấy cô nào nản, mà còn có vẻ thích hơn.
Nói khoe cũng hơi quá, tôi nhìn là thằng trắng trẻo đẹp zai sạch nước cản nhất trong hội lìu tìu, ăn nói cũng dễ nghe. Ngồi cạnh gái cũng phải đầu tư cho hình thức chút. Cứ cả bộ Tô châu , mũ cối, dép đúc cao su Tàu khựa, mượn thêm con đồng hồOrien ba ngôi sao của một tay bưởng đeo vào. Gớm chết chết, tôi ngồi góc nào bãi sáng ra góc ấy. Chả cần đến, chỉ cần ngồi xuống là các em lân la tới rồi. Na là người hay ngồi gần tôi nhiều nhất, đến sớm và về muộn nhất.
Đươc cái, cô cũng xinh, cái tuổi trăng tròn đang thì lây lẩy nhìn tức hết mắt, đôi mắt đen láy lúc nào cũng ngơ ngác hút hồn người đối diện (tất nhiên phải khác giới), đã duyên lại càng duyên khi ông trời cho thêm chiếc răng khểnh, mỗi khi cô nhoẻn cười, tôi thót cả tim lại.
Thằng cũng mười sáu như tôi rạo rực lắm, dù mặt phải tỉnh bơ. Các sếp dặn thế. Mới loạng quạng vào đời phải nghe các anh lớn. Đừng tỏ mình quan tâm đến bọn nó dù trong lòng đang thích bỏ mẹ ra. He he, tôi triệt để áp dụng, không ngờ vẻ lạnh tanh đó lại hút dính cô vào với mình.
Na có vẻ bị khớp khi ngồi với tôi, có lần để ý thấy cô cứ bới cát mãi một chỗ, đào lên rồi lấp xuống, khéo bật ra viên đá cỡ nắm đấm cô mới nhìn thấy, nhỏ nhỏ chắc không vì tâm hồn không chú ý vào việc mình đang làm lắm!
Còn tôi thì lại cô gắng tìm cách tăm hai " viên đá " cỡ vài ca ra khác, giấu trong lớp áo chả phụ kiện gì, dưới chiếc vòng bạc, đang phập phồng kia. Nghe nói nó màu đẹp như hai hạt đậu đỏ. Ngoài ra, trong lớp váy cũng như vậy có cái gì, đó là điều bí ẩn tôi quyết khám phá bằng được.
Rồi tôi cũng thành công, tuy không như ý lắm.....
Bãi chúng tôi có một anh già, tên là Đông, thường thì chúng tôi hay gọi anh với cái tên ghép : Đông Ki sot, anh cũng hơi hâm hâm, đôi khi dê dê chút. Được cái tốt tính.
Tối hôm đó, cơm nước xong, anh gọi tôi lên chỗ anh: Này, anh hỏi thật, mày ...đã được tý gì với con bé đó chưa?
Tôi ngơ ngác: Tý là tý như nào. Em cũng chỉ ngồi cạnh chứ chưa có có gì!
- Hé hé, đúng là thằng em dại, ít ra cũng phải vò xôi nắn nầm chứ. Để anh bảo cho, không thì sau này lại hối tiếc.
Anh nặn hai cục đất cỡ bằng cái bát nước chấm, xong lồng vào một cái bao tải dứa cắt hở hai đầu:
- Đây coi như cái áo. Nếu mày đứng, từ luồn tay từ đây trên này vào, chếch bốn mươi lăm độ, đứng bên phải thì khoắng bên trái và ngược lại. Nói rồi anh thò tay biểu diễn cho tôi thị phạm.
- Còn nếu mày ngồi, người ta cũng ngồi, nên khẽ khàng vén lên chút - Anh vén mép bao phía dưới lên, thò tay vào, phương vị và cắt góc như trên.
Rồi tay anh xoa xoa cục đất nhè nhẹ : " Tiếp theo thì..."
Tai tôi ù đi, cổ họng nóng ran. Ô! Không biết ông này " thực hành " môn kỹ năng " Cầm nã thủ " trên bao nhiêu đối tác rồi. Nhẽ đến tuổi này cũng khiến con nhà nhà người ta khóc khéo nước mắt chứa đầy cái bát tô.
Thế nhé! anh vui vẻ vỗ vai tôi: Tao thấy mắt nó nhìn mày kiểu đó, cứ một đập là ăn quan luôn thôi.
Nhưng tôi mãi không thực hiện được theo bài tập mẫu đó
***
Tôi bị điều sang công việc khác, đứng xóc gầu máng răng cưa. Một phần do người làm việc này bỏ về, một phần do các em cũng chán bỏ dần. Còn lại vài người, trong đó có Na, vẫn tha thẩn vào bãi đều đều. Từ khi tôi chuyển sang việc mới, cô cũng quanh quẩn gần chỗ tôi làm.
" Mày nghe tới chuyện " chài " bao giờ chưa. Một cậu cùng nhóm hỏi tôi. " Con bé kia nó thích mày lắm đấy, không cẩn thận có ngày nó làm phép trói mày ở đây!". Vớ vẩn, tôi thì tôi chả tin, chài cái con củ kiệu ấy!
- À, mày có biết, hội này hay ...đeo chã ngô không? Nó lại hỏi, lần này khiến tôi tò mò chết đi được. Nhưng để biết được điều đó không dễ, có khi phải thi hành biện pháp như anh Đông Ki sốt dạy thôi, chỉ khác cái luồn ở váy chứ không phải áo.
Tôi nghĩ thế chứ không dám làm, cứ nhìn con dao quắm mi ni sắc lẹm đeo cạnh sườn của các em sợ bỏ bố. Thấy tôi có vẻ quan tâm, thằng kia khích " Tao cho rằng mày cũng thông minh, tìm cách cho anh em xem với"
" Chuyện nhỏ" Trong đầu tự nhiên lóe lên một ý nghĩ...tương đối trí tuệ, khi thấy các em lúi húi bới bới, nhặt nhặt.
Tôi kiếm mảnh lược đỏ, cắt một mẩu tròn tròn be bé thành hình viên đá, mài nhẵn. Nhân lúc các em đang đứng xem xóc gầu, nhanh tay thả luôn xuống, hòn nhựa lóe đỏ rực lên trong nước.
" Hình như có viên kìa" một cậu bên cạnh hô lên.
Các em lao vào tranh nhau bới đống cát chân cầu, có vẻ lúc nãy cũng nhìn thoáng thấy. Viên đá to bằng đầu ngón tay út vớ được đổi đời ngay chứ đùa.
Cái miêng hố cát thì trơn, mấy cô em cùng lao vào, va phải nhau ngã chổng chân lên trời.
Chả có cái chã ngô nào trong tấm lụa đó cả!
Một cái gì hình thù cùng chi tiết rất khó tả hiện ra lờ mờ trong ánh sáng yếu...
Tôi đã kịp thấy hai "viên đá " , không giống hạt đậu đỏ lắm, cũng chẳng phải của Na nhưng cũng đủ bứt rứt tâm can.
Đêm hôm đó, cả tổ xóc gầu trằn trọc, thi thoảng có thằng lại lẻn ra sau lán, thằng thì nằm tại chỗ khiến sạp nứa rung bần bật.....
***
- Anh Dúng có dám đi chơi cùng Na không?
Na hỏi, khi cô vào bếp xin nước uống. Lúc này các cai lại điều tôi vào chân phụ trách nhà ăn.
Kể cũng khá giật mình. Tuy hàng ngày em í vẫn luôn vào xin nước, lúc này chả cần nói, cả bãi ai cũng biết Na kết tôi vỡ đít bát rồi. Về phần tôi hôm nào em không vào cũng nhơ nhớ.
" Đi ...đâu ". Tôi lắp bắp hỏi lại câu rất ngớ ngẩn.
Gương mặt cô bừng nắng, chiếc răng khểnh duyên chết đi được: " Ngoài lều nương, tối nay vớ!"
Cách cái thung lũng nơi chúng tôi ở khoảng một ki lô met, có một chiếc chòi canh nương. Nằm chơ vơ giữa các đồi sắn mọc quanh đó. Thi thoảng đi lấy gạo về tới đấy còn sớm tôi cũng hay lên đó nằm lăn ra ngủ đến tối mới mò vào bãi để... trốn việc.
" Ơ...cũng...cũng...được". Tôi lần đầu tiên bị gái hẹn, hơi cuống.
Tối hôm đó, như thằng phải gió. Đếu biết nó hẹn mình ra đấy sẽ xảy ra việc gì nhỉ? Mà có khi em ấy cũng đùa, đêm hôm từ bản mò ra, qua bao ngọn đồi, sườn núi, băng qua rừng đâu dễ.
Thôi kệ mẹ.
Nằm ngả lưng nhưng vẫn bồn chồn, không kìm được tôi leo lên mỏm đá sau lán ngó ra phía lều nương.
Ánh sáng le lói hiện ra. có người đang đốt lửa trong cái chòi đó...
...
Có nên đi ra ngoài đó không nhỉ?
Tôi băn khoăn, nghĩ tới đoạn đường tối om khe núi đầy rắn rết lại thấy ớn. Nhưng tưởng tượng tới hai hạt đậu đỏ và bài lý thuyết của anh Đông Ki sốt lại thấy máu trong người nóng lên.
Cô ấy còn dám đi cơ mà. Nhẽ nào tôi, một thằng thanh niên ...bắt đầu cứng lại không đi được.
Khoác khẩu súng săn, dắt thêm con dao dao vào bụng, tôi lầm lũi men theo những mỏm đá tai mèo nhọn hoắt đi ra, không một tiếng động leo lên cầu thang.
Na đang ngồi một mình, dưới ánh lửa bập bùng, vẻ mặt cô đẹp hoang dại. Mái tóc xổ tung, hàng ngày cô vấn chiếc khăn nhung rồi đội nón lên cho nên tôi không được ngắm, nó dài và dày như làn suối.
Ba lần định đánh động bước vào, thì ba lần tôi lại bị thứ gì đó gìm chân lại. Tiếng thằng cùng tổ cứ vang bên tai " Cẩn thận nó chài đấy!"
Nhẹ như một con mèo, tôi tụt xuống đất, trở về lán trong mối tức tối mơ hồ ở nửa dưới cơ thể đang ướt đẫm sương đêm.
***
Ông lão ngồi chờ tôi rìa lán có gương mặt quen quen, không biết đã gặp ở đâu. Vừa nhìn thấy, ông lôi tuột ra, chả rào đón gì " con Na nhà ké ốm, thầy mo cúng không khỏi. Nhưng nó trong lúc ngủ mê toàn gọi tên anh Dúng. mày phải vào thăm đi, nó chết tao bắt vạ mày đấy!"
Tôi sững người.
Líu díu theo chân ông lão vào bản. Na đang nằm thiêm thiếp trên sàn. Nhìn cô xanh tái như tàu lá héo.
" Na, Na" sau khi nhận cái gật đầu đồng ý của ông lão bố cô, tôi khẽ cầm tay lay lay. Em hé mở mắt nhận ra tôi, có gì đó chất chứa trong ánh nhìn, nó như vừa mừng rỡ, vừa uất ức khiến tôi phải quay đi.
" Ôm nó đi!" Ông lão nhắc
Bỏ mẹ rồi, dù mới mười sáu nhưng tôi cũng hiểu mình đã vướng vào một chuyện rất rắc rối. Nhìn con dao lồng trong cái vỏ sừng sơn dương đen bóng sườn ông, tôi không dám phản ứng " Bác...đi ra ngoài được không? ". Tôi thốt lên đuổi ông một cách khó khăn. Nhỡ ôm con gái ông bị tung dây trói lại thì xong đời thằng tôi à. Ngu quái đâu.
Chờ tiếng chân ông lão qua bậc cầu thang, tôi với nhè nhẹ đỡ Na ngồi dậy, chợt nhìn thấy bát thuốc sắc để đầu chiếu, cầm lấy ghé vào miệng, cô uống một hơi ngon lành " Dúng ơi, thuốc hôm nay uống không đắng!". Nghe cô nói mà miệng tôi lại thấy đắng.
***
Trở về lán, nằm vật xuống trong cơn say bốc lên tới đỉnh đầu. Về đến đây cũng là một kỳ tích. Dù người bị rách vài chỗ do lao vào bụi cây, trán u một cục khi lao đầu vách đá.
Không về không được, ở lại thì đêm nay có trời mà biết ông ké kia bắt tôi " chữa " bệnh cho con gái ông bằng phương pháp nào nữa.
Trong bữa cơm cạnh bếp lửa trên nhà sàn. Na uống hết bát rượu này đến bát rươu khác. Cứ như cô chưa ốm bao giờ. Tôi cũng bị ép đến tối tăm mặt mũi. Mẹ khỉ, cái rượu vùng này uống nhấp môi thì ngọt nhưng được đôi ba bát con muốn ngã ra luôn. Nhớ vụ uống say nằm cạnh " chị gái" con bố Thắng, cũng người Tày ở Hà giang mấy năm trước khiến tôi cố gắng kìm chế, rượu đa số lọt vào cổ áo Tô Châu dày cộm.
" Lần sau đừng bắt vía con gái ké nữa nhé!" Ông lão đưa tôi ra đầu bản dặn, khi tôi quyết nằng nặc đòi về " Cháu là cửu vạn, không về mai các anh cai đánh chết" Lý do đó hợp lý, cả nhà không dám giữ.
" Vâng, tất nhiên rồi" tôi hét lên.
***
Thằng cùng tổ xóc đãi trước nghe tôi kể xong, nó cười một cách tiếc nuối " Mẹ kiếp , đéo phải..." rồi bỏ lửng.
Tôi không ưa thằng này lắm, vì tính hơi bẩn, nhưng cùng làm cho nên kệ mẹ nó.
Đang lúi húi vo gạo ở hố nước, linh tính có ai đứng sau nhìn mình, không quay lại, để nước lắng xuống, tôi né người ra nhìn, một bóng quen thuộc hiện sau lưng.
Na...
...
Na
Na nói giọng hơi gắt gỏng : Anh không nghỉ tay ăn cơm đi, bọn trẻ con đang đói, chờ anh mãi từ nãy rồi!
Tôi bỏ cái ống tre cùng con dao xuống. Ơ, mình đang làm cái quái gì đây nhỉ?
Mà...trẻ con nào ở đây!
Đúng lúc, một lũ lít nhít nhem nhuốc ở đâu lao ra, nhìn bộ dạng bọn chúng thật ghê, tóc tai bù xù, mặt mày đen nhẻm, mũi dãi tanh tưởi bâu lấy tôi.
- Này, này, anh không hiểu, cái gì đang xảy ra thế? Tôi hoảng hốt gạt tay lũ trẻ ra, hỏi cô.
- Con anh mà cũng không nhận ra ư. Rượu chè suốt ngày làm anh đãng trí rồi.
Con tôi?
Chợt tôi nhận thấy, Na cũng không còn xinh tươi như hôm nọ nữa, nhìn cô nhăn nheo, sập xệ khiếp, nước da trắng hồng giờ chuyển sang màu sạm nắng, khắc khổ. Tôi vội chạy ra dòng suối trước nhà để rửa mặt, lẽ còn say thật. Mà cũng không biết cái nhà sàn tồi tàn ấy hiện ra lúc nào.
Một gương mặt già già, nhàu nhĩ và đen như tấm da trâu phơi gác bếp hiện ra dưới làn nước nhìn chằm chằm. Tôi ngơ ngác ngó quanh, có mỗi mình mình ở đây.
Hét lên tiếng rồi tôi co chân chạy. Đằng sau tiếng Na văng vẳng cùng lũ trẻ con gọi ơi ới bám theo...
" Dậy, mơ gì mà kinh thế!" Anh Đông Ki sốt véo tai tôi đau điếng.
Hóa ra đang ngủ mơ.
Chắc do tôi bị ám ảnh câu chuyện lúc tối. Nằm khểnh gác chân lên người anh Đông, tôi hỏi : Anh đi nhiều vùng cao, có biết chuyện " chài " không?
- Có chứ! Anh nhăn mặt: tao suýt bị đây này, nếu con gái người dân tộc nó thích, muốn " bắt mày " về làm chồng, thì nó sẽ xin con ma xó nhà nó, yểm vào một cái bùa, thế là đời mày vĩnh viễn thành bố bản. Nếu cố tình bỏ đi hoặc khi nó chán đuổi đi, mày sẽ thành thằng điên suốt phần đời còn lại.
Tôi nghe toát cả mồ hôi hột, nằm suy nghĩ rồi thiếp đi lúc nào không biết.
***
- Thế hôm đó, con Na ra tìm mày, nó có hẹn gì không? Khanh, thằng cùng tổ hỏi tôi, khi hai thằng chuẩn bị tập võ.
Nó cũng là cháu một cai bưởng, bọn tôi được khuyến khích đi học võ hàng đêm do một cai bưởng khác dạy. Tôi thì chả khoái món này lắm, chủ yếu thức đêm chờ ...nồi cháo gà, học mãi vẫn lẹt đẹt ở cấp ...không đai.
- Ờ, nó hẹn tối mai lại ra lều nương
- Thế mày có đi không?
- Chưa biết, tao sợ lắm!
- Đồ chết nhát, để tao đi nhé!
- Không được, nó hẹn tao chứ hẹn mày đek đâu. Mà thôi, tập đi!
Tôi cảm thấy thằng này hôm nay là lạ, những đòn đối kháng nó ra đều mạnh và có ý hạ gục tôi. " mày tập kiểu gì thế?" vừa kêu lên khi né xong một loạt các cú đá vào chỗ hiểm liên tục thì một cú đá quét tiếp khiến tôi lộn nhào, chân như gãy lìa ra. Đau thấu xương.
- Nghỉ ngơi vài hôm đi con ạ! Nó khinh khỉnh bỏ đi, để tôi ngồi ôm chân đau đớn trên bãi cát.
***
Rất may, cú đá quét đó chỉ khiến tôi giập cơ chút. Một chút thuốc đòn gia truyền của sư phụ vừa uống vừa xoa làm ngay ngày hôm sau tôi chỉ còn hơi tập tễnh.
Tối hôm đó, cơm xong tôi gọi thằng kia ra nói chuyện. Tìm mãi không thấy nó đâu.
Na, tôi chợt nhớ cái hẹn của Na, dù tôi chưa nói với thằng Khanh là tôi từ chối, nhưng ánh mắt cô kiên quyết lắm. Trời ạ, thì ra cú ra đòn của nó nhằm mục đích này đây!
Không còn để ý tới cái chân còn đau nhoi nhói, tôi hộc tốc lao ra lều nương.
Vừa tới nơi, thấy căn lều chao đảo dữ dội, có người đang vật lộn trên đó.
Na đầu tóc rối bù, cố giãy giụa, nhoài người ra khỏi thằng Khanh, áo của cô bị xé toang ngực, thằng kia đè lên, đang cố giật cái gấu váy ra, đúng lúc tôi đến, mảnh vải lụa đã tụt ra khỏi sườn cô gái, lộ ra cả thân hình trắng nhễ mồ hôi như men sứ.
Cú đá của tôi, dù chân trụ không vững nhưng cũng làm thằng Khanh văng ra. Nó ôm sườn nhăn nhó, rồi hực lên một tiếng như con thú bị mất mồi, lao vào tôi như cơn lốc.
" Con mẹ mày, định phá đám hả!" Mồm nói, tay nó thoi liên tục vào mặt, ngực khi đè ngửa được tôi ra. Đau quá, tôi chới với.
Đang đánh tự nhiên nó rú lên rồi ngã nhào xuống sàn, một cái lưỡi dao quắm bập vào vai. Con dao trong tay bố Na.
Thì ra, lúc tối không thấy cô đâu, ông đoán ra và đi tìm.
Tôi chưa kịp thở, thì thấy con dao lại vung lên, lần này nó nhằm vào tôi.
Thôi chết, ông hiểu lầm rồi. Không còn khoảng trống nào lăn tránh, đành nhắm mắt chờ.
" Bố, đừng " Na rú lên, cô lao vào ôm bố nức nở.
" Chúng mày xéo khỏi nơi đây ngay ". Mắt ông đỏ sọc, con dao hươ loang loáng một cách bất lực vì đang bị Na ôm cứng. Tôi vội xé áo bịt chỗ vai đang chảy máu ròng ròng của thằng Khanh, dìu nó xuống.
***
Tôi ngồi ủ rũ bên dòng suối, chốc nữa thôi tôi sẽ phải rời khỏi nơi đây.
Các cai bưởng không ai dám giữ lại, họ cũng sợ sự thịnh nộ của dân bản.
Bãi vàng, chẳng là chốn để tôi phải lưu luyến, mang lại cho tôi niềm vui gì. Nhưng miếng cơm manh áo của những đứa em mà tôi phải bỏ học đi làm sẽ mất nếu trở thành thằng vô công rồi nghề. Dù đây không phải nghề tôi muốn.
Một bàn tay đặt lên vai, tôi đoán thằng Khanh gọi tôi đi, nó cũng phải cuốn gói.
- Đi trước đi, tao với mày không thể đi cùng nhau được đâu. Tôi nghiến răng nói với ra đằng sau.
Bàn tay xoay tôi lại. Không phải Khanh mà bố Na, tôi giật mình, chẳng lẽ lão vẫn không tha cho tôi, nhưng thấy ông tay không, tôi yên tâm chút.
- Na nó kể cho bố nghe hiểu hết rồi. Hôm đó bố nhầm, tưởng mày kéo bạn ra để cùng hại nó. Cho...bố xin lỗi nhé!
Hứ, hôm đó tôi tý bay mẹ đầu dưới lưỡi dao của ông, may không có Na thì còn mạng đứng đây để cho ông xin lỗi.
Thấy mặt tôi cau lại, ông lão hoảng hốt " Thôi mà, Na nó buồn lắm. Mày tha cho bố đi!"
Tôi nhoẻn cười: Ừ thì tha.
Ông lão cũng cười khiến những nếp nhăn trên mặt giãn ra " Vào nhà bố uống rượu nhá!".
Hai người, một già một trẻ nắm tay nhau đi cười vang trên triền đá.

NGHĨA TRANG LIỆT SỸ TRƯỜNG SƠN - Thơ của Lê Na – Hội văn học nghệ thuật Tuyên Quang

Thơ của Lê Na – Hội văn học nghệ thuật Tuyên Quang – sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 6/2020.

NGHĨA TRANG LIỆT SỸ TRƯỜNG SƠN
 
Ba lần đến, trưa nào cũng tiếng ve và hoa phượng
Khóc thương hơn mười vạn cuộc đời
Ngọn gió Lào ong ong màu lửa
Đi rạc rài qua rừng cao su
 
Những bóng keo đã còng còn các anh mãi trẻ
Người vô danh, người nhầm tên, sai địa chỉ
Mấy mươi năm bạc vai từng mộ chí
Chỉ ngôi sao vẫn ánh màu cờ
 
Và tim tôi nhức buốt nửa câu thơ
Xương cốt nằm đây, hồn các anh nơi đâu
Hay về núi cao ra đồng gặt lúa
Hồn ra khơi bám biển, vững tay chèo
Hay về làng mong tạnh mưa, dọi lại chái nhà
 
Trên bàn thờ mỏi mòn ánh mắt mẹ cha
Cô hàng xóm tóc đuôi gà đã màu mây xám
Nửa thế kỷ đau thương vẫn đợi chờ
 
Xin cúi đầu trước trùng điệp đoàn quân
Trời Quảng Trị trưa nay nhiều mây trắng
Hoa phượng chợt ngưng rơi
Và tiếng ve nín lặng
Ngọn gió Lào bỏng rát cháy ngực tôi…

Khai mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật Quảng Trị 2020 tại Đà Nẵng

Ngày 17/7/2020 Nhà sáng tác Đà Nẵng đã phối hợp với Hội văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị tổ chức khai mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật năm 2020. 

Theo kế hoạch, Trại sáng tác diễn ra từ ngày 16/7/2020 đến hết ngày 30/7/2020 với sự tham gia của các văn nghệ sĩ là hội viên của Hội văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị, thuộc các chuyên ngành: văn học, nhiếp ảnh, âm nhạc, mỹ thuật, sân khấu, văn nghệ dân gian và văn học dân tộc thiểu số.

Dự khai mạc có ông Nguyễn Văn Dùng - Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị, ông Nguyễn Song Hiển - Giám đốc Nhà sáng tác Đà Nẵng và 15 thành viên tham gia Trại sáng tác.

Phát biểu khai mạc, ông Nguyễn Văn Dùng đã báo cáo tóm tắt thành tích hoạt động của Hội văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị; nhấn mạnh mở Trại sáng tác lần này sẽ tạo sân chơi mang tính trải nghiệm cho văn nghệ sỹ trong sự nghiệp lao động sáng tạo văn học nghệ thuật, các hội viên có được nguồn năng lượng để làm được điều gì đó mới mẻ, hy vọng những tác phẩm văn học nghệ thuật dự Trại sáng tác lần này tại Đà Nẵng sẽ xuất hiện những tác phẩm có chất lượng tốt. 

Ông Nguyễn Song Hiển đã phát biểu chào mừng đoàn văn nghệ sĩ của Hội văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị, tóm lược sự hình thành và quá trình phục vụ các văn nghệ sỹ cả nước của Nhà sáng tác Đà Nẵng, qua đó mong muốn các văn nghệ sỹ Quảng Trị cũng sẽ có được một kỳ trại sáng tác thành công tốt đẹp.

khaimacquangtrit7 2020

Bế mạc Trại sáng tác Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam 2020 tại Đà Nẵng

Ngày 15/7/2020, Nhà sáng tác Đà Nẵng đã phối hợp với Hội văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam tổ chức bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật năm 2020.

Trại sáng tác văn học nghệ thuật thường niên của Hội văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2020 được tổ chức với sự hỗ trợ của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật nhằm tạo điều kiện cho các tác giả các vùng miền, đặc biệt là các văn nghệ sỹ miền núi, dân tộc thiểu số có điều kiện giao lưu, trao đổi kinh nghiệm sáng tác, khơi nguồn sáng tạo văn học nghệ thuật đã kết thúc tốt đẹp sau 15 ngày hoạt động.

Với sự tham gia của 13 văn nghệ sĩ lần này (07 văn học, 01 sân khấu - điện ảnh, 04 nhiếp ảnh và 01 văn nghệ dân gian), trại sáng tác đã cho ra đời 59 tác phẩm, trong đó bao gồm: 28 tác phẩm chuyên ngành văn học, 01 tác phẩm chuyên ngành sân khấu- điện ảnh, 24 tác phẩm chuyên ngành nhiếp ảnh, 06 tác phẩm chuyên ngành văn nghệ dân gian.

Dự bế mạc có ông Nông Quốc Bình - Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam, ông Nguyễn Song Hiển - Giám đốc Nhà sáng tác Đà Nẵng, cùng các thành viên tham gia Trại sáng tác.

bemacdttsvnt7 2020

Tại bế mạc, bà Nông Thị Ngọc Hòa - Trưởng đoàn đã báo cáo tổng kết các hoạt động sáng tác, về số lượng và chất lượng tác phẩm. Các tác phẩm được sáng tác ở trại đã phản ánh đa dạng cuộc sống, học tập và lao động của đồng bào các dân tộc, cũng như những danh thắng và vẻ đẹp của thành phố Đà Nẵng. Các sáng tác sẽ bổ sung, đóng góp cho kho tàng tư liệu của Hội văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Ông Nông Quốc Bình đã biểu dương tinh thần, thái độ làm việc và đánh giá cao tính sáng tạo, đổi mới trong sáng tác cũng như sự nhiệt tình, cố gắng của các văn nghệ sỹ để có được những tác phẩm hay và giá trị. Ông cũng gửi lời cảm ơn đến tập thể cán bộ, nhân viên Nhà sáng tác Đà Nẵng đã nhiệt tình, chu đáo trong công tác đón tiếp, phục vụ các nghệ sĩ giúp cho Trại sáng tác hoạt động hiệu quả và thành công tốt đẹp.

bemacdttsvnt7 2020 1

Thay mặt Nhà sáng tác Đà Nẵng, ông Nguyễn Song Hiển đã phát biểu chúc mừng sự thành công của Trại sáng tác. Trại sáng tác đã diễn ra tốt đẹp, đảm bảo an ninh trật tự cũng như sức khoẻ của toàn bộ các văn nghệ sỹ. Nhà sáng tác Đà Nẵng luôn sẵn sàng chào đón các văn nghệ sỹ trở lại sáng tác trong thời gian tới.

Trại sáng tác diễn ra từ ngày 01/7/2020 đến hết ngày 15/7/2020.

                                          KẾT QUẢ TRẠI SÁNG TÁC

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
                                               (01/7/2020- 15/7/2020)

 
STT Họ và tên                 văn nghệ sĩ Dân tộc Giới tính Số lượng tác phẩm Loại hình     văn học   nghệ thuật Tên tác phẩm Số ngày dự trại  
 
 
 
 
1 Hoàng Xuân Hậu Kinh Nam 6 Nhiếp ảnh Một thoáng Sơn Trà 15  
Lễ hội đường phố Bà Nà  
Điệp khúc tình yêu  
Lên mây  
Nâng tầm  
Nhịp điệu trẻ  
2 Nguyễn Công Hảo Kinh Nam 6 VHDG Thăm đỉnh Pha Luông 15  
Về thăm Ba Bể  
Nhớ mùa hoa cau  
Mạch ngôn từ Hoa Lư đến Thăng Long  
Muốn làm được vua hiền phải biết việc của dân  
Tiềng động đêm rừng Vầu  
3 Nguyễn Văn Bá Kinh Nam 7 Văn học Săn mây miền đến 15  
Đủ long lanh  
Vào thân đi  
Tình Sơn nữ  
Ngón nào phía em  
Xa xăm  
Còn hư vô  
4 Dương Thị Thanh Hiền Kinh Nữ 7 Nhiếp ảnh Tiếng vọng 15  
Một thoáng Hội An  
Khi bình minh lên  
Còn lại với thời gian  
Một thoáng Cù Lao Chàm  
Một thoáng cảng Sơn Trà  
Dệt thổ cẩm  
5 Nông Thị Bích Đào Tày Nữ 6 Nhiếp ảnh Nắng sớm Cầu Rồng 15  
Nét xưa  
Bà Nà Hill  
Lễ Hội bia  
Khai hội Bà Nà Hill  
Hồn đá  
6 Nguyễn Đăng Bảy Kinh Nam 1 Văn học Hồi ức Cựu chiến binh Xô Viết tại chiến trường Việt Nam 15  
7 Mông Đông Vũ Tày Nam 1 Sân khấu- Điện ảnh Rừng xanh núi đỏ 15  
8 Nguyễn Trọng Đồng Kinh Nam 5 Văn học Gặp gỡ Ngũ Hành Sơn 15  
Bài thơ nhỏ tặng em  
Mỹ Sơn hồn thánh địa  
Việt Nam, trái tim tôi mùa thu  
Nhớ mũ rơm đi học một thời  
9 Nguyễn Thị Thu Huyền Tày Nữ 5 Văn học Một ngày ở Tùng Vài 15  
Những người lẳng lặng giữ "hồn" Huế  
Nhờ trà lưu giữ hương hoa  
Những mảnh vỡ  
Trên đường  
10 Nông Thị Ngọc Hòa Tày Nữ 7 Văn học Giặt mây 15  
Rước vía mẹ lúa  
Chân trời không mây  
Hoa đào năm ấy  
Bản mình treo cờ quanh năm  
Sông Cổ Cò  
Chạm vào tỉnh thức  
11 Nguyễn Thu Phương Tày Nữ 5 Nhiếp ảnh Bình minh trên biển Mỹ Khê 15  
Hoàng hôn sông Cổ Cò  
Yên Bình  
Kiến trúc Bà Nà  
Trước biển  
12 Hoàng Thị Nhuận Tày Nữ 1 Văn học Thơ dân gian truyền thống giáo dục nhân cách sống cho con trai con gái của người Tày, Nùng tỉnh Cao Bằng 15  
13 Tống Thị Ngọc Hân Kinh Nữ 2 Văn học Cái chân gỗ 15  
Khách quý  
  Tổng cộng     59     195  

Bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật Lai Châu 2020 tại Vũng Tàu

Sau 15 ngày hoạt động, ngày 15/7/2020, tại Nhà sáng tác Vũng Tàu đã tổ chức bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật Lai Châu 2020 do Hội văn học nghệ thuật Lai Châu phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức.

Tham dự bế mạc có bà Nguyễn Thị Thanh Vân – Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Lai Châu; bà Đỗ Thị Thanh Thùy – Giám đốc Nhà sáng tác Vũng Tàu.

bemaclaichaut7 2020

Tại buổi bế mạc ông Vũ Thanh Phương đã có báo cáo tổng kết tác phẩm trong trại sáng tác lần này. Trong thời gian diễn ra trại, các văn nghệ sĩ đã tham gia thâm nhập thực tế, tìm hiểu về các địa điểm văn hóa, du lịch tại các địa danh nổi tiếng của Vũng Tàu, thăm di tích lịch sử Côn Đảo… để từ đó tạo nguồn cảm hứng cho những đứa con tinh thần của mình. Các trại viên ngoài sáng tác còn tham gia giao lưu với các văn nghệ sỹ địa phương, thắt chặt tình đoàn kết của văn nghệ sĩ hai tỉnh Lai Châu và Bà Rịa – Vũng Tàu. Các văn nghệ sỹ cũng dành nhiều thời gian chia sẻ, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm sáng tác và rút kinh nghiệm, hoàn thiện tác phẩm chất lượng hơn. Trại sáng tác Lai Châu đã thu được 111 tác phẩm thuộc các thể loại: Văn học: 60 tác phẩm; Mỹ thuật: 8 tác phẩm; Âm nhạc: 2 tác phẩm; Nhiếp ảnh: 41 tác phẩm.

Ban tổ chức Trại sáng tác cũng đã ghi nhận và đánh giá cao sự cố gắng, nhiệt tình của các văn nghệ sỹ đã làm nên những tác phẩm hay, có giá trị. Các tác phẩm văn học, thơ, truyện, phác thảo hội hoạ, ca khúc và ảnh… đã phản ánh phong phú, đa dạng về cuộc sống, học tập và lao động của đồng bào các dân tộc Lai Châu, cũng như đời sống, hình ảnh của thành phố Vũng Tàu.

Bà Nguyễn Thị Thanh Vân đã có bài phát biểu cám ơn sự hỗ trợ và phối hợp của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật và gửi lời cám ơn đến toàn thể cán bộ nhân viên Nhà sáng tác Vũng Tàu đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt nhất về ăn, ở, sinh hoạt cũng như an toàn sức khoẻ cho văn nghệ sỹ khi tham gia dự trại, góp phần cho thành công của Trại sáng tác.

Bà Đỗ Thị Thanh Thùy đã thay mặt Nhà sáng tác Vũng Tàu cám ơn thịnh tình của các văn nghệ sỹ Lai Châu, đồng thời chúc mừng sự thành công của Trại sáng tác lần này.

                    KẾT QUẢ TRẠI SÁNG TÁC - HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT LAI CHÂU  
                                       (01/7/2020 - 15/7/2020)  
STT Họ và tên                                  văn nghệ sĩ Dân tộc Giới tính Số lượng tác phẩm Loại hình văn học nghệ thuật Tên tác phẩm Số ngày dự trại  
 
 
1 Tống Quyết Tiến Kinh Nam 5 Văn học Thơ: Biển 15  
Thơ: Biển rừng và nỗi nhớ  
Thơ: Nhớ mẹ  
Thơ: Anh gửi tặng em  
Thơ: Pa Nậm Cúm  
2 Ngyễn Thị Hồng Kinh Nữ 5 Văn học Tản văn: Quay lưng 15  
Tản văn: Tiếng ve đầu hè  
Tản văn: Côn Đảo nơi mỗi tán cây cũng hóa những anh hùng  
Tản văn: Giai điệu Tổ quốc tôi  
Tản văn: Những tia nắng ấm áp trong lòng  
3 Nguyễn Thế Trúc Kinh Nam 8 Mỹ thuật Tranh: Nhà mới sẽ dựng 15  
Tranh: Chớm  
Tranh: Nghỉ trưa  
Tranh: Giãn cách xã hội - xóm làng bình yên  
Tranh: Chớm xuân  
Tranh: Phong cảnh Tả Lèng  
Tranh: Bước thời gian  
Tranh: Đêm ở bãi Sau  
4 Đới Xuân Cường Kinh Nam 9 Văn học Thơ: Lính chiến làm thơ 15  
Thơ: Lời ru bờ tre  
Thơ: Men say vòng xòe  
Thơ: Ải mỹ nhân  
Thơ: Hồ Chí Minh - Sáng mãi tên Người  
Thơ: Nội tôi  
Thơ: Về với biển  
Thơ: Về biển nghe tiếng sáo Mông  
Thơ: Kiếp đời  
5 Trương Huy Kinh Nam 5 Văn học Truyện ngắn: Khoảng cách cánh tay 15  
Truyện ngăn: Nhớ bờ  
Truyện ngắn: Mưa nửa đêm  
Truyện ngắn: Đổi thay  
Truyện ngắn: Chiếc vòng ngọc trai  
6 Phạm Thị Đào Kinh Nữ 15 Văn học Thơ: Mùa trăng Côn Đảo 15  
Thơ: Chiếc lá  
Thơ: Biển đêm  
Thơ: Không đề  
Thơ: Không đề cho mùa lũ  
Thơ: Cầu tàu 914  
Thơ: Viết cho ngày hai bảy  
Thơ: Mùa sơn tra  
Thơ: Giấc mơ thành cổ  
Thơ: Vào hạ  
Thơ: Trước biển  
Thơ: Về với biển  
Thơ: Mưa trên phố biển  
Thơ: Phó trở mình  
Thơ: Xa con  
7 Trần Ngọc Thắng Kinh Nam 11 Nhiếp ảnh Ảnh: Bếp lửa của dân tộc Cống Lai Châu 15  
Ảnh: Vẽ sáp ong của dân tộc Mông Lai Châu  
Ảnh: Tát yến của dân tộc Thái  
Ảnh: Giữ nghề truyền thống của dân tộc Hà Nhì Lai Châu  
Ảnh: Dệt vải của dân tộc Hà Nhì Lai Châu  
Ảnh: Bình minh bãi Sau  
Ảnh: Chùa Sơn Vân Tự  
Ảnh: Cảng cá Long Hải  
Ảnh: Thanh Bình  
Ảnh: Bến Gò Găng  
Ảnh: Miếu Cô  
8 Nguyễn Văn Thắng Kinh Nam 10 Nhiếp ảnh Ảnh: Bộ đội biên phòng Thum Lũm chăm sóc sức khỏe cho bà con trên địa bàn 15  
Ảnh: Bộ đội biên phòng Thum Lũm nhận đỡ đầu những em học sinh có hoàn cảnh khó khăn  
Ảnh: Bộ đội biên phòng Dào San cùng chung tay thu hoạch trên địa bàn  
Ảnh: Bộ đội biên phòng Dào San tuần tra biên giới  
Ảnh: Bộ đội biên phòng Dào San giúp bà con thu hoạch trên đại bàn  
Ảnh: Bộ đội biên phòng Pa Vây tăng gia sản xuất  
4 ảnh không tiêu đề  
9 Trần Thị Liên Kinh Nữ 9 Nhiếp ảnh Ảnh: Nhịp điệu 15  
Ảnh: Nhịp sáo ngân xa  
Ảnh: Dệt vải của người Thái Lai Châu  
Ảnh: Khất thực  
Ảnh: Những bông hoa dây Phật  
Ảnh: Thanh bình Côn Đảo  
Ảnh: Côn Đảo  
Ảnh: Bến Gò Găng  
Ảnh: Cảng cá  
10 Hà Minh Hưng Kinh Nam 11 Nhiếp ảnh Ảnh: Chị em 15  
Ảnh: Niềm vui  
Ảnh: Tâm sự  
Ảnh: Chia sẻ  
Ảnh: Tục nhuộm răng của dân tộc Lự  
Ảnh: In sáp ong  
Ảnh: Chợ nổi Cái Răng  
Ảnh: Miền sông nước  
Ảnh : Hạnh phúc  
Ảnh: Bình minh trên dòng Cái Răng  
Ảnh: Ẩm thực miền sông nước  
11 Lê Thùy Giang Kinh Nữ 21 Văn học LLPB: Phong vị "Những làn gió Tây Bắc" 15  
LLPB: Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học Việt Nam  
LLPB: Những khó khăn của người viết phê bình văn học nghệ thuật trẻ  
LLPB: Thực trạng phê bình văn học nghệ thuật dân tộc thiểu số và một số giải pháp  
LLPB: Cách mở đầu và kết thúc trong truyện ngắn hiện đại  
LLPB: Từ bộ phim " Mùa xuân ở lại" tới cái nhìn về đề tài dân tộc thiểu số trong sáng tạo văn học- nghệ thuật đương đại  
LLPB: Ngày lạ của Bùi Việt Phương có gì lạ  
LLPB: Tây Bắc trong thơ  
Tản văn: Chiếc phươn mây của bà  
Tản văn: Gửi đi một lời cảm ơn mùa Covid  
Tản văn: Hương cam Tam Đường  
Tản văn: Đi tìm vị tầm gửi  
Tản văn: Cầu Hang Tôm  
Tản văn: Hương mắc cọp  
Tản văn: Mùa hoa táo mèo  
Tản văn : Miên man tường vy  
Truyện ngắn: Xứ người  
Truyện ngắn: Bên ấy là vực sâu  
Truyện ngắn: Hun hút đường mây  
Truyện ngắn: Lạc giữa mùa bông  
Truyện ngắn: Tấm lòng cảu A Sính  
12 Vũ Thanh Phương Kinh Nam 2 Âm nhạc Khi con hát tên Người 15  
Hát từ nghĩa trang Hàng Dương  
TỔNG   111     180  

DỐI TRỜI,DỐI THẦN, DỐI NGƯỜI...- Truyện ngắn của Đoàn Hữu Nam – Hội Nhà văn Việt Nam

Truyện ngắn của Đoàn Hữu Nam – Hội Nhà văn Việt Nam – sáng tác tại Nhà sáng tác Đại Lải tháng 7/2020.

Dối giời, dối thần, dối người…

Cụ Trưởng họ Triệu Kim Vương quyết định hôm nay phải gặp bằng được Triệu Vạn Tả. Sở dĩ phải nói quyết định vì việc này cụ trăn trở cả tuần rồi, trong họ Tả thuộc hàng cháu cụ song nó đang giữ chức Trưởng bản, hơn thế những năm vừa qua nó làm được bao nhiêu việc cho dân cho bản, tiếc là lần này theo gió theo bão nó định làm cái việc tày trời là chặt “Ông Nghiến” đem xuống núi làm nhà văn hóa cho bản và góp gỗ làm bàn ghế cho trụ sở ủy ban xã. Trong tâm người Nậm Tốc, từ khi bổ nhát cuốc đầu tiên đánh dấu việc làm nhà lập bản ở đất này tới nay thì “Ông Nghiến” là nơi trú ngụ của Thần Rừng. “Ông” coi giữ rừng núi, ruộng nương. “Ông” che chở, nuôi dưỡng Mỏ Nước Thiêng. “Ông” phù hộ độ trì cho dân bản sinh cành sinh nhánh. “Ông” bị ngả xuống Thần Rừng không nơi trú ngụ sẽ bỏ đi, rừng Nậm Tốc mất mái nhà thiêng sẽ làm mồi cho Thần Lửa, làm mồi cho những kẻ tham lam, Mỏ Nước Thiêng mất đi nguồn sữa, dân bản mất đi chiếc mũ đội đầu… Phải ngăn việc động đến giời động đến thần này lại, nhưng ngăn bằng cách nào khi việc thằng Tả định làm là vì bản, vì xã, hơn thế nữa nó lại được tay xã, tay huyện với xuống tận nơi rồi. Nhưng không ngăn không được, người già trong họ, trong bản một ý, người trẻ trong bản một lòng, mọi người họp nhau đồng lòng giao việc cản Trưởng thôn cản xã cản huyện cho cụ. Là Trưởng dòng họ lập nên cái bản này, là người cao niên, một thầy cúng cao tay nói có người nghe đe có người sợ cụ đành nhận, nhận nhưng lòng dạ rối bời, sợ lời mình nói ra thành nước đổ lá ráy, lúc đó cương lên thì chính quyền coi là chống đối, làm trái lời quan lông tai cháy trụi không biết chừng.
Cụ Vương nghĩ ngược nghĩ xuôi nghĩ ngang nghĩ dọc, ra vấp cửa thấp vào bập cửa cao cả tuần rồi mà vẫn chưa tìm ra lối mở cửa thì được biết bọn thằng Tả đang rục rịch sẽ lên núi hạ “Ông Nghiến”, không còn đường lui nữa nên hôm nay ông đành quyết định hạ mình đến gặp thằng Tả, việc không xuôi cụ sẽ lên gặp ông Xã, ông Huyện, cần thiết cụ sẽ lên tận Trung Ương nữa, thế nào cụ cũng bày được cái lòng của họ tộc, của dân bản ra cho họ biết rồi muốn ra sao thì ra.
* * *
Tả đang hì hụi mài dao bên lu nước thì thấy cụ Vương rẽ vào cổng, anh thoáng giật mình, nghi ngại, biết cụ Trưởng họ đến gặp anh vì việc gì rồi:
- Dạ mời cụ vào nhà ạ!
Cụ Vương không nói không rằng mặt ngẩng cao, chân nện từng bước qua cửa chính đầu hồi vào nhà.
Tả vội vã vào nhà, giụt gộc củi sâu vào bếp rồi lấy cái ống thổi ghé mồm lấy hết sức thổi, ngọn lửa bùng lên, anh lấy ghế trịnh trọng mời cụ Trưởng ngồi, xăng xái vào buồng định lấy chai rượu ra song bị cụ gọi giật lại:
- Anh ngồi đây tôi có chuyện muốn nói.
Tả sẽ sàng ngồi xuống cái ghế con cạnh bếp.
Cụ Vương lặng lẽ với cái điếu ục dựng cạnh bếp vê thuốc nhét vào nõ, châm lửa rồi chậm rãi nhả khói.
 Một điếu.
Hai điếu.
Ba điếu…, Tả sốt ruột chờ đợi, cứ đà này cụ Trưởng đùa với cái điếu nửa canh giờ nữa chưa chắc anh đã được nghe những lời giáo huấn quý báu, ý nghĩ phản kháng bắt đầu cựa quậy trong đầu anh.
Cụ Vương đã vê mồi thuốc thứ sáu, không kìm được Tả buột mồm, những lời nói bật ra như mũi tên khỏi nỏ:
- Cháu biết cụ đến đây dạy cháu việc gì rồi, không được đâu cụ ạ, huyện đã cho phép, xã đã quyết rồi…
- Anh thôi ngay đi, chuối trồng không vun vun chuối rừng, anh có biết “Ông Nghiến” ấy quan trọng với bản Nậm Tốc thế nào không?...
Tả giật mình, ấp úng:
-          Dạ cháu biết…
- Biết biết biết… biết mà anh vẫn vác sào chọc giời, “Ông Nghiến” là vị thần canh giữ cho bản bao nhiêu năm nay vậy mà chỉ vì công danh, vì hiếu thắng mà anh mượn oai hùm chặt hạ “Ông” thì anh… anh…
Cụ Vương chưa kịp luận hết tội không tội có cho Tả thì con ngựa thoát yên thoát cương trong người anh đã lồng lên:
- Cụ không được nói cháu vì danh vì lợi, cháu đã làm cái gì cho riêng cháu, Nhà nước bỏ ra bao nhiêu công sức để làm đường, làm điện, làm mương nước, làm nhà mẫu giáo cho bản, có mỗi cái việc chặt cây nghiến để làm nhà văn hóa thôi mà bản cố tình chống đối, người chết thì hết chứ cây chết mầm lại mọc chứ có làm sao...
Cụ Vương ngớ người, mặt đanh lại, hai hàm răng nghiền nhau ken két, ông không ngờ cái thằng kéo rào ngược dòng này lại hỗn hào cãi cụ đến vậy. Điên… Điên thật rồi, cứt lộn lên đầu thật rồi, tao không thèm nói với mày nữa, tao sẽ họp Họ, bảo Họ khai trừ mày, khi không còn làm người họ Triệu thì mày còn leo trèo được nữa hay không?...
Cụ Vương vùng dậy săm săm ra cửa. Tả đứng sững như trời trồng, anh biết việc anh định làm sóng gió sẽ nổi lên nhưng không biết nó lại căng thẳng thế này.
*  *  *
Rời khỏi nhà thằng Tả cụ Vương định về nhà song đôi chân lại đưa cụ lên chỗ “Ông Nghiến”, tảng đá dưới chân “Ông” lại đón cụ như đón tri ân tri kỷ. Cụ thả mình xuống tảng đá, ngọn gió từ lòng thung ùa lên nong rỗng từng lỗ chân lông làm dịu đi những bức bối trong lòng. Cụ mở lòng thả mắt xuôi xuống chân núi, dưới đó những mái nhà nép dưới chân rừng đã có những sợi khói dùng dằng nửa bay nửa không; dưới đó tiếng mõ trâu, chuông ngựa thi nhau lóc cóc làm rộn rã cả lòng thung; dưới đó những vườn mận tam hoa đang mùa nuôi quả; dưới đó trên con đường bê tông dẫn tới cửa từng nhà những chiếc xe máy màu xanh màu đỏ hớn hở chở chủ về nhà; dưới đó…, cái thằng Tả này, giá mày đừng làm cái việc động đến nơi ở của thần linh thì tiếng tốt của mày nuôi cấy trong lòng dân bản mùa nối mùa, vậy mà…
Học xong lớp trung cấp nông nghiệp dưới tỉnh Triệu Vạn Tả không chạy chọt xin vào cơ quan nhà nước hay doanh nghiệp nào dưới huyện mà quyết định về quê núi. Họ Triệu bám chằng bám rễ làm nên bản Nậm Tốc này đã ba mươi tư năm. Ba mươi tư năm nắng mưa nóng lạnh tối sáng người bên kia dãy núi vào Nậm Tốc chung cành chung gốc với người họ Triệu cũng nhiều, người họ Triệu sang bên kia dãy núi sinh cành sinh nhánh không ít nhưng chưa có đứa nào có nhiều chữ Chính phủ cho lại trở về Nậm Tốc chịu cái cảnh ngày ngày mặt nhòm đất đít nhòm trời cả, Tả là con thứ ba, bố mẹ Tả giầu có thì không biết chứ lo lót được chỗ dung thân trên huyện cho Tả không đến nỗi khó, vậy mà nó quyết định bỏ bay nhảy về với núi với rừng.
Tả về bản năm trước thì năm sau nó rước mận tam hoa về trồng. Mận tam hoa thì người Nậm Tốc không lạ, cách đây dăm năm trong một lần ông giám đốc trại rau quả huyện đi họp ở Hoành Bồ - Quảng Ninh, được giới thiệu một loại cây mận cho quả ăn giòn và ngọt, ông đã xin một số cây mang về và  tỉ mẩn ghép mắt với loại mận chua của vùng cao Bắc Hà. Mận chua ăn rất chua song bù lại nó mọc nhanh, sai quả, sống lâu, chịu đựng được khí hậu khắc nghiệt. Ông giám đốc không ngờ loại cây mận ngon của Quảng Ninh ghép với cây mận  của rừng núi Bắc Hà đã cho một loại mận tuyệt vời, trồng chỉ ba năm là cho thu hoạch, sai hoa, sai quả, quả to, mọng, vỏ dai, nhiều thịt, ăn ngọt như chuối, ròn tan như mận hậu. Loại mận đặc biệt này lập tức được chiết ghép, được huyện cho mấy xã vùng thấp trồng và nhanh chóng trở thành cây làm giầu cho đồng bào. Nhưng đấy là là dưới huyện còn ở những xã vùng cao thì chưa thấy ai trồng, thằng Tả xuống huyện nói thế nào đó mà được phòng Nông nghiệp cho hẳn năm trăm cành mận chiết về chia cho mỗi nhà hai mươi cành, nói là để xóa đói giảm nghèo. Nhận được những cành mận giống cả bản ai cũng mừng, cũng nghĩ chỉ ba bốn năm sau cây đẻ ra trứng vàng sẽ cho hoa cho quả bội thu như những cây bố cây mẹ. Nhưng ai nấy đều vỡ mộng, loại cây dễ trồng, dễ sống này chiều hôm trước vừa cắm xuống những quả đồi phía sau hoặc thửa ruộng phía trước mỗi nhà thì sáng hôm sau không bị trâu dày, ngựa xéo thì cũng bị lợn ủi tung rễ. Nậm Tốc cấy trồng một vụ, sau mùa thu hoạch lúa ngô là trâu ngựa được cắt dây buộc mũi thả vào rừng rồi mặc cho chúng vẫy vùng, tối về chuồng cũng được không về cũng chẳng sao, sau những ngày kéo cày kéo bừa kéo gỗ đến rạc người được sổng chuồng tự do quần thảo trên rừng dưới ruộng chúng sợ gì mà phải kiêng nể những vạt đồi được đào hố trồng loại cây lạ hoặc với chúng.
Mận tam hoa chưa bén rễ được trên đất Nậm Tốc song nó vẫn bám rễ trong đầu thằng Tả, nó tìm đến cụ Vương. Bên bếp lửa ủ bốn mùa không đứt đoạn nó rỉ rả như nước rỏ từ trần hang. Nó bảo dưới huyện mỗi cây mận năm tuổi cho cả tạ quả một vụ, mỗi cân quả bỏ rẻ cũng ngang bằng ba cân ngô, nhà có ba chục cây mận mỗi năm thu về ngang bằng hơn trăm thồ ngô, có mà trồng thuốc phiện cũng không lãi bằng. Nó bảo các loại mận như trái tráng ly, tả hoàng ly, mận hậu cho hoa cho quả trên đất Nậm Tốc thì cây mận tam hoa cũng có thể bám đất, ăn nắng, uống sương để làm giầu cho Nậm Tốc. Nó bảo phải cấm gia súc thả rông, mà việc cấm này chỉ có cụ mới bảo được dân bản, bởi cụ là Trưởng họ, là người có uy tín nhất bản, mỗi lời của cụ đều là dao chém đá chứ không phải dao chém nước…. Nó nói nhiều, nhiều lắm, ban đầu lời nó như rượu rót vào sừng trâu không đáy, sau thì như gió thổi từ lòng thung, lòng cụ từ gỗ đá đến mềm dần, cuối cùng cụ nghe nó, mang lời nó rải khắp trong họ ngoài bản. Ban đầu có người nghe có người không, nhưng cụ có cách thuyết phục của mình, chẳng gì cụ cũng là Trưởng họ, hơn thế cụ còn là người đã được cấp sắc mười hai đèn, cao nhất bản. Cấp sắc là một quyết định chứng nhận cho người đàn ông Dao đỏ lúc sống được mọi người trọng vọng, lúc chết linh hồn được thế giới thiên đường đón nhận. Cấp sắc có ba bậc, mỗi bậc là sự phong hàm, bổ nhiệm chức vụ, số đèn càng cao thì địa vị đời thực cũng như trong tâm linh, tín ngưỡng càng lớn. Với việc được làm lễ cấp sắc phong hàm cao nhất và được phép chỉ huy một trăm hai mươi binh quân, những năm qua cụ không hô mây gọi gió nhưng đã làm lễ cho bao đứa trẻ chào đời, bao người ốm đau lấy cụ làm chỗ nương tựa, bao linh hồn lên thiên đàng trú ngụ nhờ những bài cúng của cụ, lời cụ là lời vàng lời ngọc, nói ra là nước chảy xuôi dòng, hơn nữa việc cấm thả rông gia súc hàng năm đã được dân bản bắt buộc thực hiện qua mùa trồng cấy gặt hái rồi, cấm tiếp mùa nữa mà được lợi thì lòng nào chẳng thuận.
Cuối cùng nhờ lời cụ dân bản đã thuận việc cấm thả rông gia súc, cây mận tam hoa đã bám rễ, lớn lên trên đất Nậm Tốc. Trong lúc chờ cây cho hoa cho quả thằng Tả đã kịp vận động dân bản đưa mía lên đồi, đào giếng lấy nước sạch, giữa lúc cả xã cả huyện khơi dòng xây dựng nông thôn mới thì nó được bầu làm trưởng bản. Than đang hồng được gió ngọn lửa ríu rít bùng lên, đôi chân đưa cái đầu quả tim Tả ra xã, lên huyện rồi tíu tít đưa tin vui, bản vẽ, xi măng, sắt thép từ xã, từ huyện về bản, tiếp đó với sự tiếp sức của dân bản những con đường bê tông chạy tới tận sân từng nhà, mương phai dẫn nước, nhà mẫu giáo được xây dựng kiên cố, hai lề con đường vào bản hoa nở bốn mùa…, toàn những việc từ ngày lập bản tới nay chưa ai dám nghĩ tới, đáng tiếc cả bản đang hân hoan đón nhận và hưởng thụ luồng gió đổi mới thì đùng một cái thằng Tả xin bản chặt “Ông Nghiến” để làm nhà văn hóa và góp gỗ với ủy ban xã. Cả bản từ bàng hoàng đến ngỡ ngàng, tức giận, đến bàn nhau chống lệnh bản, lệnh xã.
Cụ Vương lặng lẽ thở dài.
Cách đây ba mươi tư năm, nghe lời cán bộ huyện cụ Vương dẫn mười mấy nhà họ Triệu bỏ du canh du cư tìm nơi lập bản định canh định cư. Khi anh em họ Triệu đến nơi này, thấy giữa vùng rừng núi rộng lớn mọc toàn vầu nứa  bỗng trồi lên một cây nghiến cỡ mười mấy người ôm không hết. Cảm mến cây nghiến đơn độc hiên ngang thánh thức giời đất cụ cho phát cây con mở đường lên thăm. Trên đường lên núi mọi người bắt gặp tại cái giữa cái khe nhỏ một mỏ nước dồi dào hình thành từ hai tia nước một nóng một lạnh phụt lên từ lòng một tảng đá hình đầu sư tử. Đang mệt đang khát mọi người hứng khởi vục mặt vào mỏ nước, kỳ lạ thay một luồng sinh trùm lên khiến ai nấy hồn vía ngất ngây, da dẻ giãn căng, tiếng cười trẻ trung rổn rảng. Biết mỏ nước là sữa của thần núi thần rừng, “Ông Nghiến” trên đầu là nơi thần núi thần rừng trú ngụ, mọi người rưng rưng, quyết định lấy chân núi này làm chỗ dừng chân.  Ba tư năm đi qua “Ông Nghiến” xum xuê tỏa bóng, Mỏ Nước Thiêng ngày đêm phun trào dưỡng khí, bản Nậm Tốc từ mười hai nóc nhà cộng thêm, trừ đi giờ đã có hai mươi lăm nóc, vậy mà giờ đây…, không được, bằng mọi cách phải chặn tay chúng lại, cụ Vương ngước lên ngọn “Ông Nghiến”, tán lá xanh thẫm trên đầu cụ vô tư đón những giọt nắng cuối chiều lấp lánh khiến lòng cụ phấn chấn, cụ đứng dậy sải những bước chắc nịch xuống núi.
* * *
Tả và mấy đoàn viên thanh niên thân tín hăm hở dọn dẹp quanh gốc “Ông Nghiến” để chuẩn bị hóa “Ông” từ kiếp này sang kiếp khác, việc lớn này anh đã bí mật cho đến phút chót song lúc đám cây con xung quanh gốc “Ông” vừa phát quang thì người già người trẻ của hai mươi nhăm nóc nhà của bản Nậm Tốc ào ào kéo lên vây quanh. Mọi người không nói không rằng xúm vào cào, nạo đám lớp lá mục ra khỏi gốc “Ông” khiến cho Tả và đám đoàn viên ngớ người, mừng lo lẫn lộn. Bất chợt mấy người dọn dẹp ở bạnh gốc phía Nam kêu lên:
- Ối dô, có cái gì rồi các bác ơi!
- Có một tượng đá hình đầu người các ông các bà ơi!
Mọi người xúm lại, ồ lên, trước mắt họ bên trên lớp mùn mục lưu cữu nhô lên một tảng đá nhỏ hình đầu người khắc đủ tóc, tai, mắt, mũi, miệng.
Một cụ già dùng cuốc cào thận trọng gạt lớp mùn dày, bức tượng đá bán thân hiện dần. Cụ già vừa lật nghiêng bức tượng thì bất chợt một luồng gió mát lạnh đến rợn người từ phía Tây ào tới, chỉ một lát sau cả bầu trời vần vũ trong biển mây đen, từ trong ruột biển mây phát ra tiếng sấm rền như xay đá, những lưỡi thần sét loằng ngoằng bổ xuống rừng xuống núi. Mọi người ngơ ngác, sợ hãi chúi vội vào gốc “Ông Nghiến” phó thác thân mình cho “Ông”...
Trận cuồng nộ lôi đình của ông giời không bổ xuống núi rừng và những người dân Nậm Tốc, biển mây đen chỉ dọa đùa một lúc rồi lướt về phía rừng núi trập trùng phía Đông. Mọi người hoàn hồn, ai nấy đều ngước nhìn “Ông Nghiến”, xuýt xoa cảm ơn sự che chở của “Ông”, một cuộc bàn bạc chớp nhoáng rồi một thanh niên được phóng xuống chân núi tìm cụ Vương.
*  *  *
Cụ Vương lên núi. Việc đầu tiên của cụ là bảo mọi người dọn dẹp sạch sẽ quanh chỗ “Cụ Tượng Đá” ngồi. Một người nhanh tay rải chiếc chiếu hoa trước mặt “Cụ Tượng Đá”, cụ Vương giở chiếc túi vải lanh cũ kỹ lấy ra bộ đồ cúng đặt xuống cái chiếu rồi ngồi xếp chân bằng bằng, sau hồi chiêng ngân nga trong vắt vuốt tai người tai thần bài cúng bắt đầu.
Bài cúng kể về con đường thiên di đau khổ, trên con đường ấy tổ tiên người Dao ở đất Việt đã đi từ chỗ chết đến chỗ sống, con đường đi từ đồng bằng, qua đồng bằng, qua rừng sâu núi thẳm, đất chết sau lưng, đất sống trước mặt, đất chết chặt phăng đường trở lại, đất sống mịt mù, khúc khuỷu, bẫy giăng, lớp lớp người ấy sống không bằng chết, chết không bằng sống, gập ghềnh này nuốt chửng gập ghềnh kia, đường vô định dưới chân người vô định, đom đóm lập lòe dẫn lối tới ngàn sau.
Bài cúng kể về ngày tổ tiên người Dao bước qua lằn ranh cỏ cây, lằn ranh sống chết, “trời hết rồi!” ném trả bên kia biên giới, “đất mở rồi!” hân hoan trên dòng trôi, mọi người ngước nhìn trời xin chốt lại những tháng ngày phiêu bạt, dẫu bên này bờ sống vẫn mong manh, xin được như cây tự sống và tự chết, được tri ân mảnh đất giống neo giời, dòng sữa chắt ra từ ruột núi, râm ran trong máu kẻ không nhà.
Bài cúng kể về những ngày tổ tiên người Dao nguyện lấy đất Việt làm nơi cư ngụ muôn đời, người du cư cùng người bản địa, đèn đổ thêm dầu bếp thêm củi, hạt cát cộng nhau nên bãi bờ, lòng bàn tay cũng da, lưng bàn tay cũng thịt, ta đắp đổi người, người đắp đổi ta, lời ngọt như mía lùi, lòng ngọt như nước mạch, những cặp mắt rưng rưng màu biên ải, những lòng thành như gió, gió lay lay.
Bài cúng kể về ngày họ Triệu được giời đất thần linh cho ngụ trên đất Nậm Tốc, núi dựa vào người người dựa núi, tử sinh sinh tử muôn vòng quay, thầy cúng cho trứng đậu đầu đũa, quả trứng chắc như cu li bám cây….
Bài cúng dài lê thê như không có lời cuối song vẫn thông tai thông mắt mọi người, ai nấy lặng lẽ nhắm mắt cúi đầu nổi chìm mê đắm với những đau khổ, hạnh phúc của tổ tiên, của chính mình đã trải…
 Cụ Vương - người làm cầu nối giữa dân bản với thần linh, người chuyên dùng pháp thuật trừ tà, diệt ma, cầu phúc, cứu khổ cứu nạn, giải oan giải hạn dừng lời, cặp Cháo xin âm dương làm bằng gốc vầu già trong tay cụ tung lên, mọi người hồi hộp chờ đón sự thuận lòng của giời của thần song cả hai mảnh Cháo rơi xuống úp sấp như hai cái thuyền độc mộc úp song song trên bến nước. Cụ Vương lặng người rồi tiếp tục cất tiếng khẩn cầu, hai mảnh Cháo trong tay cụ lại tung lên, hai con thuyền độc một thu nhỏ lại úp song song trên chiếu. Lần thứ ba, lần thứ tư vẫn vậy. Cụ Vương lắc đầu, hắng giọng:
- Thưa những người họ Triệu, thưa dân bản! Khi bổ nhát cuốc đầu tiên đánh dấu lãnh địa của mình tại đất này người họ Triệu đã thề với giời đất, thần linh dẫu có mưa dồn lũ đuổi thì người này, nhà này, họ này vẫn lấy sự che chở của Thần Núi, Thần Rừng, Mỏ Nước Thiêng làm nguồn sống, nguồn an ủi. Ba mươi tư năm qua nhờ Thần Núi, Thần Rừng, Mỏ Nước Thiêng chở che, tiếp sức mà bản Nậm Tốc như rìu nối cán, nhà nhà nẩy cành sinh nhánh, trẻ nhỏ lớn nhanh học giỏi, phụ nữ xinh đẹp, giỏi giang, đan ông trai tráng khỏe mạnh, can đảm, người già thông thái, dẻo dai. Hôm nay anh Tả làm cái việc ngả mái nhà che chở Thần Núi, Thần Rừng xuống để làm nhà văn hóa cho bản, điều đó tốt thôi, song việc Thần Đá nổi lên dưới gốc “Ông Nghiến”, rồi việc ông Giời nổi cơn giông bão, việc Thần Núi, Thần Rừng không chấp nhận lời khẩn cầu của tôi chứng tỏ giời đất thánh thần không cho chúng ta hạ “Ông Nghiến” xuống.
Cụ Vương ngừng lời, mọi người nhìn nhau, một cụ già lên tiếng:
- Ba mươi tư năm qua cả họ Triệu, cả bản Nậm Tốc ngưỡng vọng “Ông Nghiến”, ngưỡng vọng Mỏ Nước Thiêng, nhờ “Ông”, nhờ Mỏ Nước Thiêng chở che mà đơm hoa kết trái, giờ hạ “Ông” xuống liệu hai tia sữa của Mỏ nước có còn không? Rừng mất cây thiêng liệu có trốn được dao được búa của lòng tham không?...
Một người khác cũng lên tiếng:
- Không có rừng không có nước thì chết người chứ không có Nhà văn hóa không chết người đâu.
Một người khác:
- Muốn không phải cảnh đi mãi thành ma thì phải giữ lấy Thần Rừng, phải giữ lấy Mỏ Nước Thiêng thôi!...
Thấy cả bản đang nhao nhao ủng hộ việc giữ cây, Tả nhoai lên, giang hai tay ra cầu khẩn:
- Không được đâu các cụ các ông các bà ơi!
- Huyện đã ủng hộ, xã đã quyết rồi các cụ các ông các bà ơi!...
Cụ Vương giơ tay ra hiệu mọi người im lặng rồi hỏi Tả:
- Nếu không hạ “Ông Nghiến” mà vẫn làm được Nhà văn hóa có được không?...
Tả hoang mang, lúng túng, lắp bắp:
- Dạ… dạ… được cụ ạ!
- Vậy thì thế này…
 Cụ Vương ngẩng lên nhìn mọi người một lượt rồi cất giọng sang sảng:
 – Thưa các cụ các ông các bà, việc làm Nhà văn hóa cho bản thì phải làm rồi, các bản khác làm được thì bản mình cũng làm được, nhưng tôi tính thế này, đất đai để làm Nhà văn hóa thì đã được anh Tả hiến rồi, xã ủng hộ hai mươi triệu tiền xi măng rồi, còn lại mỗi nhà nên bỏ ra ba cây gỗ ở vườn rừng, một tạ thóc trong bồ, một con lợn, ba con gà trong chuồng, san đất dựng nhà ta bỏ công sức tự làm được không?...
Ánh mắt người già người trẻ hết đánh sang nhau lại lảng nhau.
 Giọng cụ Vương vẫn sang sảng:
- Tôi biết việc này là việc khó của mỗi nhà, nhưng xét đến ngọn đến nguồn nếu không có chính sách trồng rừng của Nhà nước thì làm gì nhà nào cũng có vườn rừng với gỗ to gỗ nhỏ; không có mương nước tưới tiêu, giống mới năng xuất cao thì làm gì nhà nào cũng thóc đầy bồ ngô đầy sàn gà lợn đầy chuồng; anh Tả không quyết đưa cây mận tam hoa về thì biết đến bao giờ ta mới thoát nghèo. Là người từng lấy sữa từ Mỏ Nước Thiêng cúng đón sáu mươi hai đứa trẻ trong bản chào đời, tắm rửa tiễn hai mươi sáu người trong bản về cõi thiêng liêng tôi mong mọi người mọi nhà hãy bớt chút lộc giời, lộc ông Nhà nước làm cái việc làm Nhà văn hóa cho chính mình đi.
Mọi người nhìn nhau rồi ồ lên những tiếng đồng thuận, cụ Vương ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi cất tiếng cầu khẩn, cặp Cháo trong tay cụ lại tung lên, lần này thì lòng Giời, lòng Thần và lòng người gặp nhau.
*   *   *
Tối đó sau bữa rượu hể hả khi còn lại hai người, Triệu Vạn Dùn – cháu trai cụ Vương hiện đang dạy học ở trường Trung học cơ sở xã hỏi ông nội:
-  Cụ làm cái việc dối thần dối bản thế mà không sợ thần phạt, họ mạc chửi cho sao?
Cụ Vương giật mình:
- Cháu bảo sao?...
- Thì cái việc cụ mang vật Tổ trong gian thờ thiêng lên chôn chỗ gốc “Ông Nghiến” rồi nói dối là Thần Rừng hiện lên ấy.
Cụ Vương run run nhìn thằng cháu nội rồi thở dài:
- Ông đã xin phép tổ tiên rồi, dối thần dối người mà giữ được “Ông Nghiến”, giữ được Mỏ Nước Thiêng, làm được Nhà văn hóa cho bản thì thần thánh, dân bản cũng tha tội cho ông thôi.
Subscribe to this RSS feed

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ - TRUNG TÂM HỖ TRỢ SÁNG TÁC VĂN HỌC NGHỆ THUÂT
Địa chỉ : 1A Hoa Lư, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại : 04 39.745.763
Bản quyền thuộc về Trung tâm Hỗ trợ Sáng tác VHNT. Yêu cầu trích nguồn khi đăng tải nội dung từ trang web này