BÀI VIẾT MỚI

Minh Phương

Minh Phương

Bế mạc Trại sáng tác ảnh tại Đà Lạt: “Lưu luyến ngày chia tay”

Sau 6 ngày tích cực vừa tập huấn, trao đổi lý thuyết, vừa trải nghiệm thực tế sáng tác tại nhiều địa điểm nổi tiếng của Đà Lạt và Lâm Đồng, chiều 26/04/2021, Trại sáng tác ảnh nghệ thuật tại Đà Lạt dành cho 30 nghệ sĩ thuộc khu vực Bắc Trung bộ và Nam Trung bộ - Tây Nguyên đã kết thúc tốt đẹp, để lại dấu ấn sâu đậm trong mỗi nghệ sĩ về một kỳ mở Trại sáng tác (sau đây gọi tắt là Trại) đầu tiên của năm 2021 do Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức.

bemacnhiepanhvnt4 2021

Nghệ sỹ nhiếp ảnh (NSNA) Lê Nguyễn - UV Thường vụ, Phó Chủ tịch Hội được phân công tham gia với vai trò chỉ đạo; Công tác tổ chức được giao trực tiếp cho NSNA Nguyễn Đức Diệu. Bên cạnh đó, NSNA Nguyễn Xuân Chính - UV Ban Chấp hành và NSNA Nguyễn Văn Thương - UV Ban Chấp hành tại khu vực miền Đông Nam bộ nhưng đồng thời là một nghệ sĩ của Bảo Lộc, Lâm Đồng đã được lãnh đạo Hội phân công hỗ trợ công tác tổ chức trại. Dù tham gia ở vai trò nào thì toàn bộ các cán bộ được phân công đã hoàn thành rất tốt nhiệm vụ, góp phần trực tiếp vào kết quả của Trại.
Tại buổi bế mạc, NSNA Lê Nguyễn đã thay mặt lãnh đạo Hội biểu dương những nỗ lực của các thành viên Ban Tổ chức, đồng thời ghi nhận và đánh giá cao tinh thần học hỏi, nhiệt huyết sáng tạo, tình cảm nghệ sĩ tương trợ lẫn nhau của mỗi trại viên đã trực tiếp làm nên thành công chung của kỳ mở trại lần này. NSNA Lê Nguyễn cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến lãnh đạo và các cán bộ, nhân viên Nhà Sáng tác Đà Lạt đã nhiệt tình, chu đáo, hỗ trợ cho anh em nghệ sĩ nhiếp ảnh hoàn thành tốt nhất thời gian học tập, sáng tác tại Đà Lạt.


bemacnhiepanhvnt4 2021 1

Phát biểu đánh giá chất lượng tác phẩm của trại, NSNA Lý Hoàng Long - Ủy viên HĐNT Hội NSNAVN đã bày tỏ sự trân trọng trước nỗ lực tìm tòi những góc nhìn mới của các trại viên thông qua các nhiều phương pháp thể hiện tác phẩm. Tuy nhiên nghệ sĩ cũng thổ lộ còn chút tiếc nuối khi một số góc cạnh rất đặc trưng của Đà Lạt lại chưa được các trại viên chú tâm khai thác hết.

bemacnhiepanhvnt4 2021 2

Ông Võ Văn Quốc Bình - Giám đốc Nhà Sáng tác Đà Lạt thay mặt đơn vị hỗ trợ cũng đã đánh giá cao sự tham gia nghiêm túc của các trại viên, đồng thời bày tỏ sự ấn tượng đối với  150 tác phẩm được các nghệ sĩ nộp báo cáo kết quả Trại. Trong phần phát biểu chúc mừng, ông hy vọng các tác phẩm ảnh thực hiện tại Trại lần này sẽ sớm được các nghệ sĩ công bố rộng rãi, có cơ hội bay cao, bay xa hơn tại các cuộc thi ảnh trong nước, quốc tế để góp phần tuyên truyền, quảng bá các giá trị lịch sử, văn hóa, con người cũng như nhiều vẻ đẹp còn tiềm ẩn của thành phố xứ ngàn hoa - Đà Lạt.
Thay mặt các trại viên, NSNA Nguyễn Đăng Lâm (Quảng Ngãi) đã ghi nhận mô hình kết hợp tập huấn lý thuyết, sáng tác thực tế và kết thúc bằng đánh giá, trao đổi cụ thể trên từng tác phẩm của Trại lần này vẫn là mô hình hiệu quả khi tạo điều kiện cho hội viên các khu vực có được cơ hội giao lưu học hỏi, trau dồi thêm kiến thức cũng như tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý trong sáng tác những đề tài mới, trên những vùng đất mới.
Buổi bế mạc kết thúc cũng đã khép lại một kỳ tổ chức Trại thành công tốt đẹp của Hội NSNAVN tại Tp. Đà Lạt. Những tình cảm lưu luyến của anh em nghệ sĩ ẩn chứa trong mỗi dòng tin nhắn được chia sẻ tại group chat của trại là niềm động viên lớn đối với Hội, đặc biệt là với những cán bộ trực tiếp tham gia phụ trách, hỗ trợ công tác tổ chức, điều đó sẽ tiếp thêm động lực để Hội tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động nghiệp vụ bổ ích dành cho hội viên cả nước trong thời gian tới.

Trích đoạn nghiên cứu “Văn học dân tộc Tày từ góc nhìn văn hóa” của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Cao Thị Hảo – Hội văn học nghệ thuật Thái Nguyên (P2)

Trích đoạn nghiên cứu “Văn học dân tộc Tày từ góc nhìn văn hóa” của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Cao Thị Hảo – Hội văn học nghệ thuật Thái Nguyên – hoàn thành tại nhà sáng tác Vũng Tàu tháng 4/2021

2.3Tiếng Tày và văn học Tày

          2.3.1. Tiếng Tày trong văn học

Tiếng Tày chỉ ngôn ngữ nói của người Tày và cách viết phiên âm tiếng nói người Tày theo mẫu tự La tinh. Về chữ viết người Tày không có hệ thống chữ viết cổ kiểu như người Thái, Dao hay Chăm. Trước đây họ mượn chữ Hán để sáng tác và tạo ra chữ Nôm Tày. Thời kì cuối thế XIX trở về trước, họ dùng chữ Hán và chữ Nôm Tày trong các công việc hành chính, sáng tác văn chương, ngày nay kiểu chữ này vẫn được dùng trong cúng lễ. Những năm đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau Cách mạng tháng Tám, khi chữ Quốc ngữ được phổ biến, người Tày đã mượn hệ thống âm tự của chữ Quốc ngữ để phiên âm theo cách đọc tiếng Tày. Về mặt ngữ pháp (vị trí, chức năng của chủ ngữ, vị ngữ, động từ, tính từ...) tương đối giống tiếng Việt. Về thanh điệu, tiếng Tày có năm thanh điệu (không, sắc, lặng, hỏi, huyền), không có thanh ngã (  ). Tuy nhiên, tiếng Tày vẫn có một số điểm khác tiếng Việt. Chẳng hạn, một số chữ cái tiếng Kinh ít dùng thì trong tiếng Tày lại khá phổ biến như: f (fây, fột, fạ...); j, p (pja, pjá, phjắc, phj Boóc...). Hoặc một số phụ âm đi liền nhau tạo thành âm tiết kép cũng xuất hiện nhiều trong tiếng Tày như: oo (noọng, boóc, loỏng...), oô (lồng toồng), âư (nâư, nẩư, tẩư...). Trong quá trình phát triển tiếng Tày đã và đang được bổ sung, sử dụng nhiều từ vựng thuộc nhóm Hán - Việt và từ thuần Việt. Nhóm từ vựng trong hệ thống tiếng nói thống nhất của cả nước đã tạo thuận lợi cho người Tày phát triển ngôn ngữ, chữ viết của mình.

Tiếng Tày dùng chủ yếu để giao tiếp giữa các thành viên trong cộng đồng dân tộc Tày. Trong làng bản, xóm thôn, trong gia đình, họ mạc, trong trao đổi mua bán ở những phiên chợ vùng cao, trong lễ hội văn hóa, hoạt động lễ nghi... tiếng Tày được sử dụng phổ biến. Ở những bản làng xa trung tâm, tiếng Tày là ngôn ngữ chính được sử dụng trong đời sống của đồng bào dân tộc Tày. Trong giáo dục hiện nay, ở một số vùng sâu, vùng xa, tiếng Tày được sử dụng song song cùng tiếng Kinh.

Trong thực tế, xã hội phát triển theo chiều hướng hội nhập nên tiếng Tày ít được sử dụng trong đời sống của những đồng bào ở trung tâm huyện/thị, thành phố trung tâm của các tỉnh miền núi – nơi có đông đồng bào dân tộc Tày sinh sống. Thậm chí ở nhiều nơi, người dân tộc Tày ở thế hệ thứ ba không còn nói được tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ của ông cha mình. Dường như cùng với sự hiện đại hóa, giao lưu mở cửa, đời sống vật chất của đồng bào được cải thiện hơn thì những vấn đề thuộc về bản sắc văn hóa, hồn cốt riêng của dân tộc cũng đang có nguy cơ bị mai một, biến dạng thậm chí biến mất hoặc triệt tiêu cho thích ứng với đời sống hiện đại.

Hiện tượng này không chỉ xảy ra đối với tiếng Tày mà cả với những ngôn ngữ dân tộc thiểu số khác. Đây cũng là một thách thức đặt ra trong việc bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đặc biệt là vấn đề sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ và giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người. Bởi sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ sẽ lưu giữ được điệu hồn của tộc người. Khi chuyển dịch sang một ngôn ngữ khác, bản sắc và hồn cốt dân tộc sẽ bị phôi phai ít nhiều hoặc không thể diễn tả tốt tâm tư tình cảm của chủ thể. Đây cũng là một thách thức đối với chúng ta khi xã hội đang tiến tới hòa nhập môi trường hiện đại, hội nhập thế giới mà vẫn muốn gìn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc của các cộng đồng tộc người.

Ngôn ngữ mang trong bản thân nó những đặc trưng văn hóa của một tộc người vì nó vừa là sản phẩm vật chất đồng thời cũng là sản phẩm tinh thần. Thông qua ngôn ngữ, bạn đọc có thể khám phá những cách quan niệm, đạo đức, tôn giáo, tín ngưỡng hay phong tục tập quán của một tộc người. Bởi “không đơn giản là tác giả dùng công cụ ngôn ngữ để truyền đạt một vấn đề nào đó, mà quan trọng là trong bản thân hệ thống ngôn ngữ độc đáo kia đã ẩn chứa những nội dung, những lời đề nghị, những dự báo thể hiện những khát vọng, lí tưởng thẩm mĩ cao đẹp của tác giả” [125]. Và phía sau đó là của cả một cộng đồng dân tộc.

Những năm gần đây, Đảng và chính phủ đã chú trọng đến vấn đề bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết dân tộc thiểu số. Một số loại hình truyền thông bằng tiếng Tày – Nùng đã được thực hiện, đi vào đời sống cộng đồng như: báo chí, phát thanh, truyền hình, chiếu phim lưu động (chiếu bóng)... ở một số vùng có đồng bào Tày sinh sống. Trong chương trình giáo dục phổ thông Tổng thể được công bố mới nhất gần đây (tháng 4/2017), Bộ Giáo dục & Đào tạo đã có kế hoạch và dành thời lượng  nhất định cho việc dạy tiếng dân tộc thiểu số ở các địa phương có người dân tộc thiểu số sinh sống bắt đầu từ cấp Tiểu học. Đây là một tín hiệu đáng mừng bởi nếu không đưa vào giáo dục phổ cập, hướng đến tiếp cận một cách phổ biến cho đồng bào dân tộc thì ngôn ngữ dân tộc thiểu số nói chung và tiếng Tày nói riêng sẽ bị thu hẹp dần phạm vi sử dụng và dần dần sẽ dẫn đến tiêu vong.

Tiếng Kinh và chữ Quốc ngữ là phương tiện giao tiếp đặc biệt dùng hàng ngày trong các lĩnh vực giáo dục, hành chính. Tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số lại gắn bó chặt chẽ trong sinh hoạt văn hóa của mỗi dân tộc. Ngôn ngữ văn học của dân tộc Tày được hình thành trên cơ sở tiếng nói của cộng đồng tộc người Tày từ các địa phương đến các trung tâm của các tỉnh vùng Việt Bắc và Đông Bắc. Nó được hình thành và phát triển trong quá trình xây dựng và đấu tranh để bảo vệ vùng biên giới của tổ quốc.

2.3.2. Văn học viết bằng tiếng Tày

Từ thực trạng tiếng Tày được sử dụng trong đời sống như trên, chúng tôi nhận thấy hiện tượng này đã tác động không nhỏ đến đời sống sáng tác văn học bằng tiếng Tày. Cụ thể là số lượng tác phẩm sáng tác bằng tiếng Tày rất hạn chế. Theo thống kê của chúng tôi, văn xuôi viết bằng tiếng Tày có: 4/322, thơ viết bằng tiếng Tày: 17/94, lí luận phê bình: 0 [xin xem Phụ lục 3]. Như vậy ở tất cả các thể loại, từ văn xuôi, thơ đến lí luận phê bình, số lượng tác phẩm viết bằng tiếng Tày rất ít. Trong đó thể loại thơ được viết bằng tiếng Tày nhiều hơn cả, có 17 tập thơ (hoặc truyện thơ hoặc trường ca) chiếm 17,0%, lí luận phê bình không có tác phẩm nào và văn xuôi thì chỉ có 4 tác phẩm, chiếm 1,24%. Nguyên nhân chính bởi số lượng người biết tiếng Tày để đọc tác phẩm không nhiều. Phần lớn những người dân ở vùng sâu, vùng xa chỉ nói tiếng Tày thì lại không có điều kiện tiếp xúc với những tác phẩm tiếng Tày. Số người có thể tiếp cận được những sáng tác này thì lại hạn chế về ngôn ngữ, không đọc được hoặc đọc không hiểu hết do không biết tiếng Tày hoặc vốn ngôn ngữ tiếng Tày quá ít ỏi. Điều này cho thấy vấn đề tiếp nhận văn học bằng ngôn ngữ mẹ đẻ trong đời sống cộng đồng dân tộc Tày nói riêng và đời sống xã hội nói chung là không phổ biến. Do đó, tác phẩm viết bằng tiếng Tày không nhiều. Hiện nay, theo tư liệu mà chúng tôi cập nhật được có một số tập thơ tuyển chọn hoặc mới xuất bản gần đây các tác giả đã dịch sang tiếng Tày, chẳng hạn như: Tuyển tập thơ Dương Thuấn (3 tập) của Dương Thuấn [107], Vũ khúc Tày [95] của Y Phương… đều in song ngữ Tày-Việt. Phải chăng lượng độc giả thích đọc tiếng Tày tăng lên? Theo chúng tôi, có lẽ do các tác giả mong muốn lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc qua ngôn ngữ mẹ đẻ của mình trong thời đại hội nhập và mở cửa giao lưu văn hóa hiện nay. Đây cũng là một xu hướng cần khuyến khích để những tác phẩm văn học bằng tiếng Tày ngày càng xuất hiện nhiều hơn.

Thành tựu của văn học viết bằng tiếng Tày được kết tinh chủ yếu ở giai đoạn những năm kháng chiến (1945 - 1975), thời kì mặt trận Việt Minh được thành lập tạo căn cứ địa Việt Bắc. Thời kì đó 6 tỉnh miền núi phía Bắc - nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (gồm Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, thường được viết tắt là Cao – Bắc – Lạng, Hà – Tuyên - Thái). Thơ văn viết bằng tiếng Tày đã khá phát triển và đạt được những thành tựu nhất định. Về văn xuôi ta có thể kể đến các tác phẩm như: Ché Mèn đẩy pây họp (1958), Cưu khửn đông (1964) của tác giả tiên phong Nông Minh Châu, Boỏng tàng tập éo (1973) của Nông Viết Toại... Về thơ tiêu biểu là: Tiểng lượn cần Việt Bắc (1959), Cần phja Bjoóc (1961) của Nông Quốc Chấn, Hại hóa vit pấy (1956), Kin ngay phuổi khát (1971), Đét chang nâu (1976) của Nông Viết Toại, Kin Mác (1975) của Triều Ân, … Với những sáng tác bằng tiếng Tày, các tác giả đã trở thành những người tiên phong phản ánh tâm hồn suy nghĩ của người dân tộc Tày bằng chính ngôn ngữ mẹ đẻ của mình trong những năm tháng lịch sử oai hùng của dân tộc mà tộc người Tày đã góp phần không nhỏ để Việt Nam giành được độc lập. Đây là một thành tựu đáng ghi nhận về sự góp mặt của ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại. Lần đầu tiên, ngôn ngữ của một dân tộc thiểu số đã có những thành tựu nghệ thuật, khẳng định được vị trí của mình trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc Tày.

Nông Quốc Chấn đã mang đến một sinh khí mới cho thơ ca Tày khi viết về cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông cùng Nông Minh Châu đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tác bằng tiếng Tày và đưa chữ viết Tày phát triển. Lần đầu tiên, bộ chữ Tày La tinh hóa đã được sử dụng sáng tạo và thành công qua những tác phẩm viết bằng tiếng Tày của Nông Quốc Chấn và Nông Minh Châu. Cưu khửn đông của Nông Minh Châu là một truyện thơ dài phản ánh đời sống vất vả, cơ cực của người miền núi trong những năm kháng chiến chống Pháp. Số phận của những người cách mạng bị treo giá bằng những hạt muối quý hơn vàng nơi vùng cao. Thơ Nông Quốc Chấn phần lớn viết bằng tiếng Tày và được ngâm theo điệu phong slư như: Tiểng lượn cần Việt Bắc, Nhình slao lẩn chuyện, Toọn mà bản, Nặm tỷ… đặc biệt là truyện thơ Cần Phja Bjoóc. Tác phẩm Cần Phja Bjoóc đã sử dụng lối đối đáp dân gian Tày mà chỉ có thể ngâm lên mới cảm nhận hết giá trị của âm điệu. Tác phẩm đã thể hiện một thành công mới khi sử dụng ngôn ngữ bản địa phản ánh hiện thực cách mạng.

Hầu hết các trường ca thời hiện đại (truyện thơ) đều viết bằng tiếng dân tộc, (có thể kể đến Cần Phja Bjoóc của Nông Quốc Chấn, Cưu khửn đông của Nông Minh Châu). Điều này do được kế thừa từ truyền thống truyện thơ Nôm Tày phong phú đa dạng, đồng thời hình thức truyện thơ cũng tạo tâm lý dễ tiếp nhận trong cộng đồng dân tộc Tày. Với tác phẩm Cưu khửn đông, Nông Minh Châu đã thể hiện sự gian lao vất vả của Pảo và Luông - hai cán bộ cách mạng bỏ gia đình vào hoạt động trong rừng. Giặc Pháp đã treo đầu họ bằng muối ăn nhưng nhờ được sự bảo vệ của đồng bào nên họ đã thoát khỏi tay giặc. Đó là hình ảnh Phiên - một người vợ hết mực thủy chung với chồng, đã chịu đựng mọi cực khổ để bảo vệ chồng, bảo vệ các đồng chí cách mạng. Đó còn là số phận của biết bao kiếp người lầm than đói khổ trong cuộc sống mưu sinh với nhiều thân phận khác nhau. Lời thơ miêu tả thật chân thực:

                              Quê khỏi dú Nam Định đin keo

                              Khỏ khát bấu mì theo may tỏn

                              Nà lảy bấu mì khỏn bẳn ca

                              Thai dác chắng pản mà Bắc Kạn

                              (Quê tôi ở Nam Định đất người Kinh

Nghèo không có nửa sợi chỉ ngắn

Ruộng nương không có cả hòn đất để ném quạ

Chết đói mới lang thang đến Bắc Kạn nơi này)

                    (Cưu khửn đông)

Từ sau 1975 đến nay, văn xuôi viết bằng tiếng Tày không thấy xuất hiện, chỉ có một số tập thơ được xuất bản song ngữ Tày - Việt, tiêu biểu như: Lục pjạ hất lùa(1995), Slíp nhỉ tua khoăn (2002), Trăng Mã Pí Lèng (2002) của Dương Thuấn; Dám kha cần ngám điếp (2005), Co nghịu hưu cần (2008), Phác noọng dú tin phạ quay (2016) của Dương Khâu Luông, Vũ khúc Tày (2016) của Y Phương.

Với lợi thế là văn vần dễ đọc, dễ thuộc, phù hợp với ngâm nga những sáng tác thơ viết bằng tiếng Tày của các tác giả dễ đi vào lòng người đọc, phù hợp với việc tuyên truyền cho đồng bào dân tộc Tày ở miền núi. Có lẽ đây cũng là lí do để lí giải tại sao thơ viết bằng tiếng Tày lại nhiều hơn cả so với các thể loại khác.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nhận thấy hiện nay trong chương trình đổi mới giáo dục, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã dành một thời lượng nhất định cho việc học ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở những vùng có nhu cầu (tiếng dân tộc trở thành môn học tự chọn trong chương trình). Điều này sẽ thúc đẩy ngôn ngữ dân tộc thiểu số phổ biến hơn và chúng ta có quyền hi vọng tiếng Tày sẽ được phổ cập rộng rãi hơn. Và khi môi trường ngôn ngữ được mở rộng thì tất yếu những sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ của các dân tộc thiểu số sẽ phát triển trong đó có những sáng tác bằng tiếng Tày.

Trích đoạn nghiên cứu “Văn học dân tộc Tày từ góc nhìn văn hóa” của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Cao Thị Hảo – Hội văn học nghệ thuật Thái Nguyên (P1)

Trích đoạn nghiên cứu “Văn học dân tộc Tày từ góc nhìn văn hóa” của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Cao Thị Hảo – Hội văn học nghệ thuật Thái Nguyên – hoàn thành tại nhà sáng tác Vũng Tàu tháng 4/2021

Văn học Tày trong dòng chảy văn hóa Bách Việt

1.3.1. Nguồn gốc tộc người

Người Tày thường có mối quan hệ mật thiết với người Nùng (về cả ngôn ngữ và văn hóa). Họ sống chủ yếu ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam như: Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang. Ở Trung Quốc dân tộc Tày (còn gọi là dân tộc Zhuang) phân bố chủ yếu ở Quảng Tây, Quảng Đông và Vân Nam. Ở Quảng Tây, họ là dân tộc có dân số đông nhất.

          Người dân tộc Tày - Nùng (Zhuang) là những dân cư nổi tiếng về truyền thống dũng mãnh trong quân sự. Trong suốt lịch sử từ đời Tần, khi người Hán Hoa bắt đầu Nam tiến chinh phạt vùng Lĩnh Nam, đến sau này, người Tày (Zhuang) đã chống lại, tránh khỏi đồng hoá, nhưng đã không thành lập một quốc gia tự chủ được như người Lạc Việt ở vùng đồng bằng phía nam của Việt Nam ngày nay. Người Nùng đã được dùng trong quân đội của các triều đại Trung Quốc, Việt Nam và đóng những vai trò quan trọng trong các trận chiến biên giới Việt - Trung.

Phía Nam sông Dương Tử và vùng gọi là Lĩnh Nam, theo sử liệu Trung Hoa là nơi cư ngụ của các tộc người gọi chung là Bách Việt. Bách Việt đã đóng góp lớn trong sự thành lập của nền văn minh Trung Hoa bắt đầu từ đời Thương. Nguồn gốc của cư dân Bách Việt và văn minh của họ trải dài từ thời kỳ đá mới (7,000 đến 1200BC) tới thời đại đồ đồng, nhất là ở khu vực từ Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông hiện nay đến đồng bằng phía Bắc của Việt Nam.

Văn hóa Tày ở Việt Bắc được kiến tạo từ nền văn hóa Bắc Sơn, văn hóa đồ đá mới tiêu biểu cho vùng Đông Nam Á. Những di vật khảo cổ tìm thấy ở Bắc Sơn (Lạng Sơn) chứng tỏ rằng 8000 năm trước, các dân tộc vùng Việt Bắc đã chuyển từ kinh tế hái lượm săn bắn sang kinh tế nông nghiệp. Những di vật của nền văn hóa Đông Sơn ở đây tiêu biểu cho văn hóa đồ đồng trong thời kỳ Âu Lạc đã đạt tới trình độ phát triển cao hơn. “Người Âu Việt (mà một chi nhánh hậu duệ là người Tày hiện nay) đã cũng người Lạc Việt (mà một nhánh hậu duệ là người Mường hiện nay) xây dựng nên quốc gia Âu Lạc, quốc gia xuất hiện sớm nhất ở Đông Nam Á”[159; Tr.98].

Như vậy, người Tày ở có mối quan hệ với người Zhuang ở Trung Quốc và cùng chủng tộc người Bách Việt. Trong quá trình thiên di và tạo lập họ đã cư trú ở phía Đông của sông Hồng và trở thành một cộng đồng dân tộc có văn hóa riêng và cư trú chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam.

 Qua nhiều thời kỳ trong lịch sử, cũng có rất nhiều người Việt lên vùng núi sống, hoà nhập và đã hoàn toàn trở thành Tày hoá qua vài thế hệ. Đấy là các gia đình quan chức được bổ nhiệm, các vua chúa thua chạy với tàn quân lên ở ẩn chờ cơ hội, các di dân vì loạn lạc nghèo đói. Điển hình cho hiện tượng này là dấu ấn cư trú của triều đình nhà Mạc tại Cao Bằng. Họ Mạc đã lên Cao Bằng từ năm 1592 khi triều đình Lê - Trịnh chiếm được kinh đô Thăng Long sau bao năm nội chiến Bắc Triều - Nam Triều. Nhà Mạc trú ẩn và tồn tại đến mấy đời vua trước khi bị mất hẳn. Chính điều này đã tạo ra sự giao lưu văn hoá giữa hai dân tộc Tày - Việt và để lại nhiều nét sâu đậm trong văn hoá Tày ở Việt Bắc. "Ngày nay điền giã một vùng rộng lớn, lấy thị xã Cao Bằng làm tâm điểm, với bán kính 15 - 20 km, chúng ta sẽ bắt gặp những "mảnh vụn" của những đợt di dân ấy” [203; Tr.113]. Một hiện tượng lạ đối với các nhà ngôn ngữ học và dân tộc học là ở một số xã của vùng bán kính nói trên, hàng nghìn người Tày nhưng lại không nói sõi tiếng Tày mà hầu như chỉ sử dụng tiếng Kinh. Nổi bật hơn cả là vùng mà dân địa phương gọi là "Chợ Cao Bình", thuộc xã Hoàng Tung, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng (cách thị xã Cao Bằng chừng 6km). Dân cư vùng này có khoảng 2000 người, tuy họ là dân tộc Tày nhưng chỉ biết tiếng Kinh, không biết tiếng Tày. Người địa phương gọi người Tày vùng này là dân "Mãn Đan" (có nghĩa Tày không ra Tày, mà Kinh cũng không ra Kinh). Ở cách đó không xa, người Tày ở vùng nước Hai thì lại hoàn toàn nói thạo tiếng Tày. Bên cạnh tính bảo lưu ngôn ngữ quê gốc miền xuôi, người Tày ở chợ Cao Bình vẫn giữ thói quen làm nhà đất và trồng luỹ tre xung quanh nơi nhà ở và xung quanh bản làng. Ngoài ra về sinh hoạt ăn uống, ma chay cưới xin... họ vẫn giữ những phong tục như người Kinh đồng bằng Bắc Bộ.

Những người Tày ở vùng "Chợ Cao Bình" nói trên, hầu hết là dân di cư vùng Hải Dương, Kinh Bắc chuyển cư lên đây. Một số dòng họ còn giữ gia phả cho biết đó là con cháu số quan lại triều Mạc, không chịu đầu hàng nhà Lê, lên Cao Bằng tiếp tục phục vụ cho nhà Mạc” [203;Tr.116].

Trong quá trình di cư lên Cao Bằng, một số tín ngưỡng, tôn giáo, văn hoá của người Việt ở miền xuôi cũng được du nhập vào địa phương. Trên Cao Bằng, khá nhiều đình chùa hiện nay đã được xây dựng từ thời nhà Mạc. Điều này là một trong những minh chứng cho thấy mối giao lưu văn hóa Kinh - Tày khá sâu sắc đã diễn ra ở đây.

  1.3.2. Những tác động và giao thoa

Từ văn hoá Hoà Bình, văn hoá Bắc Sơn đã tiến tới đồ đá mài với đặc điểm rìu mài gọi là rìu Bắc Sơn, các đồ gốm, trang sức võ sò được tìm thấy nhiều ở các hang, di chỉ vùng Lạng Sơn, như hang Làng Cườm, Bó Lúm, Bó Nam... Ở Quảng Tây, cũng tìm thấy được di chỉ của văn hoá Bắc Sơn vùng Nam Ninh, dọc các sông Ung, Zua, You với các đồ trang sức, đồ gốm, đất màu hoàng thổ, đồ đá với loại rìu văn hoá Bắc Sơn.

So sánh với các di chỉ như Hemudu ở vịnh Hàng Châu, tỉnh Triết Giang và các di chỉ bắc Quảng Đông, thì các di chỉ vùng biển xa phía nam sông Dương Tử, vùng đông nam (Phúc Kiến, Quảng Đông) và tây nam (Quảng Tây, Vân Nam) có liên hệ gần gũi với các di chỉ ở Việt Nam.

          Qua thời kỳ đá mới, vào khoảng thời nhà Thương, một di chỉ phía nam sông Dương Tử đáng chú ý là vùng Wucheng ở Giang Tây (Jiangxi), quận Thanh Giang nơi sau này là lãnh thổ của nước Việt miền Triết Giang, cạnh nước Chu. Di chỉ này gần sông Tống, dễ dàng thông thương với các lãnh thổ Việt ở vùng Lĩnh Nam (Quảng Tây và Quảng Đông). Tại đây, nhiều chữ viết được tìm thấy trên các mảnh gốm, đồ đồng, rất khác với chữ viết ở phía bắc, cho thấy một ngôn ngữ và văn hoá hoàn toàn khác và độc lập với văn hoá trung tâm phía Bắc của Trung Quốc. Đây là chữ viết cổ nhất của ngôn ngữ Việt cổ. Tư liệu sử của thời Chiến quốc cho thấy từ ngữ, văn phạm khác với tiếng Hán xưa. Một số tác giả cho rằng tiếng nói xưa của người Việt là thuộc Thái ngữ, gần với tiếng nói của cư dân miền Lĩnh Nam, mà hậu duệ hiện nay là người Nùng - Zhuang ở biên giới Việt-Trung ngày nay, và người Việt ở đồng bằng sông Hồng.

          Cả hai thuộc họ Bách Việt mà ta có thể xếp vào nhóm Lạc Việt (Luo Yue) (thuộc đông nam Quảng Tây và bắc Việt Nam) và Tây Âu (Xi Ou) (thuộc miền Quế Giang và Tây Giang của Quảng Tây). Chính tại các vùng này từ Lĩnh Nam, Vân Nam và bắc Việt Nam mà các nhà nghiên cứu tìm thấy trống đồng nhiều nhất, một văn hoá trống đồng rực rỡ mà ta gọi là văn hoá Đông Sơn toả ra từ Bắc Việt Nam. Các hình vẽ người, thú, thuyền, trống... nổi tiếng trên vách đá ở biên giới Việt - Trung, dọc sông Zuo, Quảng Tây mang đậm nét hình ảnh trên trống đồng Đông Sơn của người Lạc Việt. Cũng như các vật tổ của người Nùng - Zhuang như cóc, ếch đều được thể hiện trên trống đồng.  

Hiện nay, chúng ta đã rõ về An Dương Vương Thục Phán từ Tây Âu chinh phục nước Văn Lang của người Lạc Việt đời các vua Hùng. Tây Âu là một nhánh của Lạc Việt ở miền núi trung du, hay gọi là Âu Việt. Người Âu Việt đây chính là người Tày cổ. Theo truyền thuyết "Cẩu chủa cheng vùa" (chín chúa tranh vua) của đồng bào Tày ở Cao Bằng thì Thục Phán là con của Thục Chế thủ lãnh vùng Nam Cương ở Cao Bằng, Quảng Tây gồm 9 xứ Mường. Vào cuối đời Hùng Vương, Thục Phán hãy còn ít tuổi lên thay vua cha vừa mất. Các chúa Mường kéo quân về đòi chia và nhường vua. Tuy ít tuổi, nhưng thông minh, Thục Phán đã bày ra các cuộc thi, đua sức đua tài và hẹn ai thắng sẽ nhường vua cho. Ông dùng mưu kế làm cho họ mất nhiều công sức mà không ai thắng cuộc. Cuối cùng các chúa phải qui phục Thục Phán. Khi Nam Cương cường thịnh lúc Văn Lang suy yếu, Thục Phán đã đánh chiếm và tự xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa, gần Hà Nội.

 Choang (còn có hơn 20 tên gọi khác nhau như Bố Choang, Bố Nùng, Bố Liêu, Bố Thổ, Bố Việt, Bố Mạn, Bố Tày...) là một dân tộc thiểu số của Trung Quốc, có lịch sử phát triển lâu đời, và có nguồn gốc từ cộng đồng dân cư Bách Việt thời cổ đại. Choang là dân tộc có số dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở Trung Quốc, phân bố chủ yếu ở khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây; châu tự trị dân tộc Choang, Miêu Văn Sơn, Vân Nam, huyện tự trị dân tộc Choang, Dao Liên Sơn, Quảng Đông và rải rác ở các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Tứ Xuyên. Năm 2001, dân tộc Choang trên toàn Trung Quốc có khoảng 15,5 triệu người, riêng người Choang ở Quảng Tây đã chiếm hơn 91,3% với số dân 14,15 triệu.

          Ngôn ngữ là đặc trưng của mỗi dân tộc. Người Choang cũng có ngôn ngữ của dân tộc mình, đó chính là “Choang ngữ”. Choang ngữ là một loại ngôn ngữ của nhánh ngôn ngữ Choang Thái, nhóm ngôn ngữ Choang Động thuộc ngữ hệ Hán Tạng. Tại Quảng Tây phân thành hai phương ngữ lớn là bắc bộ và nam bộ, Ung Giang và Hữu Giang là nơi giao giới của hai loại phương ngữ này. Sự khác biệt giữa phương ngữ nam bộ và bắc bộ chủ yếu ở chỗ: phương ngữ nam bộ có hai loại phụ âm thanh tắc có bật hơi và không bật hơi, trong khi phương ngữ bắc bộ chỉ có phụ âm tắc không bật hơi, không có phụ âm tắc bật hơi. Sự phân loại thanh điệu của Choang ngữ về cơ bản giống nhau cả ở phương bắc và nam, nhưng thanh âm thì mỗi loại đều khác biệt. Phương ngữ Nam, Bắc đại thể giống nhau về từ vựng cơ bản và từ mượn tiếng Hán, còn kết cấu ngữ pháp thì cả miền Nam và miền Bắc lại hoàn toàn giống nhau, không có khác biệt rõ rệt. Choang ngữ từ xưa đến nay đều là công cụ giao tiếp và giao lưu tư tưởng của người Choang. Trong quá trình giao lưu lâu dài với người Hán, rất nhiều người dân tộc Choang đã học được cách sử dụng Hán ngữ và Hán văn. Theo một số nghiên cứu, vào thời kỳ Đường Tống, Quảng Tây đã có những nơi có một số người học Hán văn, vay mượn chữ Hán biên soạn một loại kết cấu hình thanh “thổ phương khối tự” (còn gọi là tục tự, “thổ tục tự” tạm dịch là chữ của người địa phương), nhưng chưa thông dụng. Do đó, đến trước thời giải phóng, người Choang không có văn tự dân tộc. Đảng cộng sản Trung Quốc chủ trương bình đẳng dân tộc, nhất là dân tộc ở khu tự trị, lại hỗ trợ dân tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ của riêng mình, tạo điều kiện cho các dân tộc thiểu số chưa có văn tự (chữ viết) sáng tạo ra văn tự phù hợp với ngôn ngữ dân tộc mình. Chính phủ đã tổ chức lực lượng tiến hành nghiên cứu khảo sát phương ngữ Choang và quyết định lấy Choang ngữ bắc bộ làm phương ngữ cơ sở, lấy ngữ âm Vũ Minh làm âm chuẩn và tạo ra văn tự của Choang ngữ. Ngày 29 tháng 11 năm 1957, Hội nghị toàn thể lần thứ 63 của Quốc vụ viện Trung Quốc đã thông qua “Choang văn phương án”. Khu tự trị người Choang ở Quảng Tây còn thành lập “hội ủy viên công tác Choang văn” để phát triển ngôn ngữ Choang. Bên cạnh đó, tiếng Choang cũng được đưa vào trường học, nhà xuất bản ra đời xuất bản sách báo tiếng Choang. Nhìn chung, việc thành lập và phát triển ngôn ngữ Choang đã tạo ra sự đa dạng về văn hoá dân tộc cho xã hội Trung Quốc và thúc đẩy tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở vùng dân tộc Choang. Điều này có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong quá trình phát triển và ổn định vùng đồng bào dân tộc Choang ở Trung Quốc [xem thêm 210].

          Như vậy, dân tộc Choang đã có một ngôn ngữ, văn tự riêng và thể hiện được bản sắc văn hóa của mình. Trong quá trình hình thành và phát triển, văn học Choang đã có sự giao thoa với văn học Tày. Bởi giữa tộc người Tày và tộc người Choang có quan hệ gần gũi về chủng tộc và văn hóa. Đây là cơ sở để cho thấy những điểm tương đồng và sự tiếp xúc văn hóa của văn học Tày trong dòng chảy văn hóa Bách Việt.

Tiểu kết chương 1

Văn học dân tộc Tày đã có truyền thống phát triển khá bề thế, hơn nữa, dân tộc Tày còn có tiếng nói riêng, ngôn ngữ riêng, nền văn học riêng. Với đề tài này, văn học Tày lần đầu tiên được nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện từ khởi thuỷ đến nay trên tất cả các phương diện như chữ viết, hệ thống thể loại, đội ngũ tác giả… Đặc biệt văn học Tày luôn được đặt trong cái nhìn đối sánh để tìm ra những ảnh hưởng và khu biệt về bản sắc, đặt trong không gian văn hoá đặc thù, đặc trưng để chỉ ra những đặc điểm cụ thể. Từ góc nhìn văn hóa, văn học Tày sẽ được xem xét trên cơ sở đặc điểm cư trú, tập quán lối sống, những đặc trưng riêng về văn hóa tộc người, đặc biệt là nguồn gốc tộc người trong dòng chảy văn hóa Bách Việt, trong đó có mối quan hệ với dân tộc Choang của Trung Quốc.

Nước ta là một nước đa dân tộc, trong số 54 dân tộc thì bộ phận dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống ở vùng núi cao. Điều này thể hiện những đặc thù riêng trong quá sinh trưởng của các tộc người đồng thời cũng tạo nên những màu sắc riêng trong thế giới tâm hồn con người miền núi. Nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số từ góc độ văn hóa là chú trọng đến môi trường sống, những tương tác văn hóa và những cách quan niệm trong thế giới quan của họ về thế giới hiện thực. Những khảo sát về ngôn ngữ, thể loại,kiểu tác giả sẽ cho chúng ta thấy những nét bản sắc văn hoá Tày luôn được lưu giữ trong văn học.

Khai mạc Trại sáng tác ảnh nghệ thuật tại Đà Lạt

Ngày 20/04/2021, tại Nhà Sáng tác Đà Lạt, Hội Nghệ sỹ nhiếp ảnh (NSNA) Việt Nam đã chính thức khai mạc Trại sáng tác ảnh nghệ thuật dành cho các hội viên thuộc 2 khu vực: Bắc Trung bộ và Nam Trung bộ - Tây Nguyên.

Đây cũng là Trại sáng tác đầu tiên trong năm 2021 của Hội NSNA Việt Nam với sự hỗ trợ của Trung tâm hỗ trợ sáng tác văn hoá nghệ thuật. Sau Trại Đà Lạt, theo kế hoạch, Hội sẽ tiếp tục tổ chức Trại sáng tác nghiệp vụ tại Tp. Đà Nẵng dự kiến vào trung tuần tháng 8/2021 dành cho các nghệ sĩ thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

khaimacnhiepanhvnt4 2021

Tại Trại sáng tác này, các nghệ sỹ tham dự sẽ tập trung học tập nâng cao nghiệp vụ và trải nghiệm thực tế, sáng tác nghệ thuật tại thành phố Đà Lạt và một số địa điểm thuộc tỉnh Lâm Đồng.
Tham dự trại sáng tác lần này tại Đà Lạt, các hội viên sẽ được các báo cáo viên trao đổi, tập huấn về 4 nội dung gồm: Ảnh Trắng - Đen; Ảnh bộ; Ảnh phong cảnh và nội dung về Thị giác & tính thẩm mỹ trong Nhiếp ảnh. Sau đó, các trại viên cũng sẽ được Ban Tổ chức hướng dẫn thâm nhập thực tiễn, tham quan, sáng tác tại một số địa điểm giàu chất liệu nhiếp ảnh trong Tp. Đà Lạt và một số khu vực thuộc tỉnh Lâm Đồng. 

khaimacnhiepanhvnt4 2021 1

Tại buổi khai mạc, NSNA Nguyễn Văn Thương - UV BCH Hội đã trao đổi một số nội dung trong hoạt động của trại. Với chủ trương tôn trọng, khuyến khích các trại viên tự do sáng tạo nghệ thuật, Hội NSNA Việt Nam mong muốn tìm kiếm sự đa dạng về nội dung, phong cách, phương thức biểu hiện, dấu ấn cá nhân, cá tính sáng tạo trong mỗi tác phẩm của các nghệ sĩ... Bên cạnh đó, trên phương diện là người con của vùng đất Lâm Đồng, NSNA Nguyễn Văn Thương cũng hy vọng đề tài về hiện thực cuộc sống sẽ là mảnh đất màu mỡ để các nghệ sĩ ươm mầm cho tình yêu văn học nghệ thuật nảy nở sinh sôi; cùng với vẻ đẹp mộng mơ, lãng mạn của Thành phố Đà Lạt hy vọng sẽ là nguồn cảm hứng sáng tạo tươi mới cho các nghệ sĩ tham dự trại sáng tác lần này.
NSNA Hà Hữu Nết - Phó Chủ tịch thường trực Hội VHNT tỉnh Lâm Đồng rất vui khi Ban Tổ chức đã đồng ý tạo điều kiện để một số nhà nhiếp ảnh của tỉnh được tham gia dự thính trong các buổi trao đổi nghiệp vụ giúp nâng cao trình độ chuyên môn cho các hội viên.
Thay mặt Nhà sáng tác Đà Lạt, ông Võ Văn Quốc Bình - Giám đốc Nhà sáng tác Đà Lạt hy vọng các nghệ sĩ sẽ thật sự thoải mái để tập trung sáng tác hiệu quả, có được nhiều tác phẩm chất lượng trong đợt dự trại lần này. Nhà sáng tác Đà Lạt sẽ tạo điều kiện hỗ trợ tối đa cho các nghệ sĩ trong thời gian tham dự hoạt động nghiệp vụ thiết thực này của Hội.
Ngoài ra, theo chương trình hoạt động của Trại sáng tác, các nghệ sĩ sẽ đi thực tế sáng tác theo kế hoạch của Ban Tổ chức và sáng tác tự do tại Tp. Đà Lạt và tỉnh Lâm Đồng. Sau đó, Ban Tổ chức sẽ dành thời gian để các nghệ sĩ biên tập, lựa chọn files ảnh tốt gửi báo cáo kết quả trại, đồng thời tổ chức phân tích, nhận xét các tác phẩm theo những chủ đề đã được tập huấn trước đó. Việc phân tích, “đọc” ảnh sẽ được thực hiện bởi lãnh đạo Hội, các báo cáo viên và của chính các trại viên nhằm cùng mở ra cơ hội học tập bổ ích, thiết thực cho hoạt động sáng tác của mỗi hội viên sau dự trại.

Nguồn: vapa.org.vn

Khai mạc Trại sáng tác ảnh nghệ thuật tại Đà Lạt

Ngày 20/04/2021, tại Nhà Sáng tác Đà Lạt, Hội Nghệ sỹ nhiếp ảnh (NSNA) Việt Nam đã chính thức khai mạc Trại sáng tác ảnh nghệ thuật dành cho các hội viên thuộc 2 khu vực: Bắc Trung bộ và Nam Trung bộ - Tây Nguyên.

Đây cũng là Trại sáng tác đầu tiên trong năm 2021 của Hội NSNA Việt Nam với sự hỗ trợ của Trung tâm hỗ trợ sáng tác văn hoá nghệ thuật. Sau Trại Đà Lạt, theo kế hoạch, Hội sẽ tiếp tục tổ chức Trại sáng tác nghiệp vụ tại Tp. Đà Nẵng dự kiến vào trung tuần tháng 8/2021 dành cho các nghệ sĩ thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

khaimacnhiepanhvnt4 2021

Tại Trại sáng tác này, các nghệ sỹ tham dự sẽ tập trung học tập nâng cao nghiệp vụ và trải nghiệm thực tế, sáng tác nghệ thuật tại thành phố Đà Lạt và một số địa điểm thuộc tỉnh Lâm Đồng.
Tham dự trại sáng tác lần này tại Đà Lạt, các hội viên sẽ được các báo cáo viên trao đổi, tập huấn về 4 nội dung gồm: Ảnh Trắng - Đen; Ảnh bộ; Ảnh phong cảnh và nội dung về Thị giác & tính thẩm mỹ trong Nhiếp ảnh. Sau đó, các trại viên cũng sẽ được Ban Tổ chức hướng dẫn thâm nhập thực tiễn, tham quan, sáng tác tại một số địa điểm giàu chất liệu nhiếp ảnh trong Tp. Đà Lạt và một số khu vực thuộc tỉnh Lâm Đồng. 

khaimacnhiepanhvnt4 2021 1

Tại buổi khai mạc, NSNA Nguyễn Văn Thương - UV BCH Hội đã trao đổi một số nội dung trong hoạt động của trại. Với chủ trương tôn trọng, khuyến khích các trại viên tự do sáng tạo nghệ thuật, Hội NSNA Việt Nam mong muốn tìm kiếm sự đa dạng về nội dung, phong cách, phương thức biểu hiện, dấu ấn cá nhân, cá tính sáng tạo trong mỗi tác phẩm của các nghệ sĩ... Bên cạnh đó, trên phương diện là người con của vùng đất Lâm Đồng, NSNA Nguyễn Văn Thương cũng hy vọng đề tài về hiện thực cuộc sống sẽ là mảnh đất màu mỡ để các nghệ sĩ ươm mầm cho tình yêu văn học nghệ thuật nảy nở sinh sôi; cùng với vẻ đẹp mộng mơ, lãng mạn của Thành phố Đà Lạt hy vọng sẽ là nguồn cảm hứng sáng tạo tươi mới cho các nghệ sĩ tham dự trại sáng tác lần này.
NSNA Hà Hữu Nết - Phó Chủ tịch thường trực Hội VHNT tỉnh Lâm Đồng rất vui khi Ban Tổ chức đã đồng ý tạo điều kiện để một số nhà nhiếp ảnh của tỉnh được tham gia dự thính trong các buổi trao đổi nghiệp vụ giúp nâng cao trình độ chuyên môn cho các hội viên.
Thay mặt Nhà sáng tác Đà Lạt, ông Võ Văn Quốc Bình - Giám đốc Nhà sáng tác Đà Lạt hy vọng các nghệ sĩ sẽ thật sự thoải mái để tập trung sáng tác hiệu quả, có được nhiều tác phẩm chất lượng trong đợt dự trại lần này. Nhà sáng tác Đà Lạt sẽ tạo điều kiện hỗ trợ tối đa cho các nghệ sĩ trong thời gian tham dự hoạt động nghiệp vụ thiết thực này của Hội.
Ngoài ra, theo chương trình hoạt động của Trại sáng tác, các nghệ sĩ sẽ đi thực tế sáng tác theo kế hoạch của Ban Tổ chức và sáng tác tự do tại Tp. Đà Lạt và tỉnh Lâm Đồng. Sau đó, Ban Tổ chức sẽ dành thời gian để các nghệ sĩ biên tập, lựa chọn files ảnh tốt gửi báo cáo kết quả trại, đồng thời tổ chức phân tích, nhận xét các tác phẩm theo những chủ đề đã được tập huấn trước đó. Việc phân tích, “đọc” ảnh sẽ được thực hiện bởi lãnh đạo Hội, các báo cáo viên và của chính các trại viên nhằm cùng mở ra cơ hội học tập bổ ích, thiết thực cho hoạt động sáng tác của mỗi hội viên sau dự trại.

Nguồn: vapa.org.vn

Khai mạc Trại Mỹ thuật Việt Nam 2021 tại Đà Nẵng và Đại Lải

Trong các ngày 16 - 17/4/2021 Hội Mỹ thuật Việt Nam đã phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức khai mạc Trại sáng tác mỹ thuật 2021 dành cho các hoạ sỹ đến từ các tỉnh thành phía nam tại Đà Nẵng và các hoạ sỹ đến từ các tỉnh thành phía bắc tại Đại Lải.

Trại sáng tác mỹ thuật phía bắc diễn ra tại Nhà sáng tác Đại Lải và Trại sáng tác mỹ thuật phía nam diễn ra tại Nhà sáng tác Đà Nẵng.

Dự khai mạc tại Nhà sáng tác Đà Nẵng có ông Huỳnh Văn Thọ - Phó chánh văn phòng Hội Mỹ thuật Việt Nam văn phòng đại diện phía nam, ông Hồ Minh Quân - Trưởng đoàn, ông Hồ Đình Nam Kha - Chủ tịch hội Mỹ thuật Đà Nẵng, ông Võ Huỳnh Hữu Trí - Giám đốc Nhà sáng tác Đà Nẵng, cùng các hoạ sỹ hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam tham gia Trại sáng tác lần này.

khaimacmythuatvnt4 2021 1

Buổi khai mạc tại Nhà sáng tác Đại Lải có sự tham dự của ông Đào Hùng – Trưởng đoàn; ông Nguyễn Thạch Tâm – Phó Giám đốc Nhà sáng tác Đại Lải.

khaimacmythuatvnt4 2021

Trong chương trình hội trại sáng tác, các họa sĩ sẽ có những buổi giao lưu, chia sẻ, giới thiệu, nghiên cứu các chuyên đề chuyên sâu về mỹ thuật đương đại, tìm hiểu và phát hiện đề tài, hình thành ý tưởng trong sáng tác mỹ thuật… Cùng với việc tiếp cận, nghiên cứu các chuyên đề, các họa sĩ còn đi tìm hiểu thực tế, sáng tác tại các địa phương trong tỉnh Vĩnh Phúc và thành phố Đà Nẵng.

Theo kế hoạch, hai Trại sáng tác diễn ra từ ngày 15/4/2021 đến hết ngày 29/4/2021 với sự tham gia của các hoạ sỹ là hội viên của Hội Mỹ thuật Việt Nam.

Khai mạc Trại Mỹ thuật Việt Nam 2021 tại Đà Nẵng và Đại Lải

Trong các ngày 16 - 17/4/2021 Hội Mỹ thuật Việt Nam đã phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức khai mạc Trại sáng tác mỹ thuật 2021 dành cho các hoạ sỹ đến từ các tỉnh thành phía nam tại Đà Nẵng và các hoạ sỹ đến từ các tỉnh thành phía bắc tại Đại Lải.

Trại sáng tác mỹ thuật phía bắc diễn ra tại Nhà sáng tác Đại Lải và Trại sáng tác mỹ thuật phía nam diễn ra tại Nhà sáng tác Đà Nẵng.

Dự khai mạc tại Nhà sáng tác Đà Nẵng có ông Huỳnh Văn Thọ - Phó chánh văn phòng Hội Mỹ thuật Việt Nam văn phòng đại diện phía nam, ông Hồ Minh Quân - Trưởng đoàn, ông Hồ Đình Nam Kha - Chủ tịch hội Mỹ thuật Đà Nẵng, ông Võ Huỳnh Hữu Trí - Giám đốc Nhà sáng tác Đà Nẵng, cùng các hoạ sỹ hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam tham gia Trại sáng tác lần này.

khaimacmythuatvnt4 2021 1

Buổi khai mạc tại Nhà sáng tác Đại Lải có sự tham dự của ông Đào Hùng – Trưởng đoàn; ông Nguyễn Thạch Tâm – Phó Giám đốc Nhà sáng tác Đại Lải.

khaimacmythuatvnt4 2021

Trong chương trình hội trại sáng tác, các họa sĩ sẽ có những buổi giao lưu, chia sẻ, giới thiệu, nghiên cứu các chuyên đề chuyên sâu về mỹ thuật đương đại, tìm hiểu và phát hiện đề tài, hình thành ý tưởng trong sáng tác mỹ thuật… Cùng với việc tiếp cận, nghiên cứu các chuyên đề, các họa sĩ còn đi tìm hiểu thực tế, sáng tác tại các địa phương trong tỉnh Vĩnh Phúc và thành phố Đà Nẵng.

Theo kế hoạch, hai Trại sáng tác diễn ra từ ngày 15/4/2021 đến hết ngày 29/4/2021 với sự tham gia của các hoạ sỹ là hội viên của Hội Mỹ thuật Việt Nam.

Khai mạc Trại sáng tác kịch bản sân khấu Nha Trang 2021

Ngày 11/4/2021, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam đã phối hợp với Nhà sáng tác Nha Trang khai mạc Trại sáng tác kịch bản Sân khấu năm 2021 tại Nhà sáng tác Nha Trang. Đây là hoạt động thường niên của Hội Sân khấu Việt Nam với sự hỗ trợ của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật.

khaimacsankhauvnt4 2021

Tham dự khai mạc có lãnh đạo Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam: bà Trịnh Thuý Mùi – Chủ tịch; ông Giang Mạnh Hà – Phó Chủ tịch Hội. Ngoài ra còn có sự tham dự của ông Nguyễn Thanh Hà – Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Khánh Hòa; bà Đỗ Thị Mai Hương – Giám đốc Nhà sáng tác Nha Trang; ông Nguyễn Văn Chức – nguyên Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Khánh Hoà cùng các Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú của địa phương. Đặc biệt, các nghệ sĩ, diễn viên của Nhà hát nghệ thuật truyền thống Khánh Hòa đã mở màn buổi khai mạc bằng những tiết mục nghệ thuật đặc sắc khiến không khí Trại sáng tác càng thêm hứng khởi.

Đây là trại sáng tác đầu tiên của năm 2021 do Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tổ chức với sự tham gia của 17 tác giả đến từ ba miền: Bắc, Trung, Nam. 17 kịch bản được tham gia trại sáng tác lần này thuộc các thể loại: Kịch nói, tuồng, chèo…hứa hẹn mang đến cho các đơn vị nghệ thuật trong nước nhiều sự lựa chọn.

khaimacsankhauvnt4 2021 1
NSND Giang Mạnh Hà – Phó Chủ tịch Hội NSSKVN phát biểu tại buổi khai mạc.

Năm 2020 do ảnh hưởng từ dịch Covid – 19, nghệ thuật sân khấu gặp rất nhiều khó khăn. Sau khi giảm bớt giãn cách xã hội, nhiều hoạt động đã trở lại bình thường, ngành nghệ thuật biểu diễn cần có sự thay đổi tư duy để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khán giả. Việc thu hút lôi kéo khán giả trở lại rạp cần đầu tư, nâng cấp ngay từ khâu kịch bản, dàn dựng, thiết kế sân khấu sao cho đẹp hơn, hấp dẫn hơn và hiện đại hơn. Vì thế, sự đóng góp của các tác giả kịch bản là vô cùng quan trọng. NSND Thúy Mùi, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam khuyến khích các tác giả viết thêm những kịch bản dành riêng cho thiếu nhi bởi đối tượng này là khán giả tương lai của sân khấu. Bà cũng khẳng định việc tổ chức các trại sáng tác kịch bản gần đây đã cho thấy hiệu quả rõ rệt.

Cụ thể, 6/20 kịch bản tham dự trại sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Lạt tháng 5 năm 2020 đã được lên sàn diễn. Số kịch bản tham dự trại sáng tác Đại Lải tháng 11 năm 2020 cũng đang được một số đơn vị nghệ thuật lên kế hoạch dàn dựng.

Bà Đỗ Thị Mai Hương thay mặt toàn thể cán bộ nhân viên Nhà sáng tác Nha Trang chào mừng các tác giả kịch bản sân khấu đến với vùng biển Nha Trang hiền hoà, tươi đẹp. Bà khẳng định lãnh đạo Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật luôn quan tâm sâu sát đến công tác tổ chức Trại sáng tác cũng như các lĩnh vực văn học nghệ thuật và nhất là nghệ thuật truyền thống. Bà cũng chúc các tác giả thật nhiều sức khoẻ và có được nhiều kịch bản thành công trong kỳ Trại lần này.

Khai mạc Trại sáng tác kịch bản sân khấu Nha Trang 2021

Ngày 11/4/2021, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam đã phối hợp với Nhà sáng tác Nha Trang khai mạc Trại sáng tác kịch bản Sân khấu năm 2021 tại Nhà sáng tác Nha Trang. Đây là hoạt động thường niên của Hội Sân khấu Việt Nam với sự hỗ trợ của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật.

khaimacsankhauvnt4 2021

Tham dự khai mạc có lãnh đạo Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam: bà Trịnh Thuý Mùi – Chủ tịch; ông Giang Mạnh Hà – Phó Chủ tịch Hội. Ngoài ra còn có sự tham dự của ông Nguyễn Thanh Hà – Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Khánh Hòa; bà Đỗ Thị Mai Hương – Giám đốc Nhà sáng tác Nha Trang; ông Nguyễn Văn Chức – nguyên Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Khánh Hoà cùng các Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú của địa phương. Đặc biệt, các nghệ sĩ, diễn viên của Nhà hát nghệ thuật truyền thống Khánh Hòa đã mở màn buổi khai mạc bằng những tiết mục nghệ thuật đặc sắc khiến không khí Trại sáng tác càng thêm hứng khởi.

Đây là trại sáng tác đầu tiên của năm 2021 do Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tổ chức với sự tham gia của 17 tác giả đến từ ba miền: Bắc, Trung, Nam. 17 kịch bản được tham gia trại sáng tác lần này thuộc các thể loại: Kịch nói, tuồng, chèo…hứa hẹn mang đến cho các đơn vị nghệ thuật trong nước nhiều sự lựa chọn.

khaimacsankhauvnt4 2021 1
NSND Giang Mạnh Hà – Phó Chủ tịch Hội NSSKVN phát biểu tại buổi khai mạc.

Năm 2020 do ảnh hưởng từ dịch Covid – 19, nghệ thuật sân khấu gặp rất nhiều khó khăn. Sau khi giảm bớt giãn cách xã hội, nhiều hoạt động đã trở lại bình thường, ngành nghệ thuật biểu diễn cần có sự thay đổi tư duy để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khán giả. Việc thu hút lôi kéo khán giả trở lại rạp cần đầu tư, nâng cấp ngay từ khâu kịch bản, dàn dựng, thiết kế sân khấu sao cho đẹp hơn, hấp dẫn hơn và hiện đại hơn. Vì thế, sự đóng góp của các tác giả kịch bản là vô cùng quan trọng. NSND Thúy Mùi, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam khuyến khích các tác giả viết thêm những kịch bản dành riêng cho thiếu nhi bởi đối tượng này là khán giả tương lai của sân khấu. Bà cũng khẳng định việc tổ chức các trại sáng tác kịch bản gần đây đã cho thấy hiệu quả rõ rệt.

Cụ thể, 6/20 kịch bản tham dự trại sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Lạt tháng 5 năm 2020 đã được lên sàn diễn. Số kịch bản tham dự trại sáng tác Đại Lải tháng 11 năm 2020 cũng đang được một số đơn vị nghệ thuật lên kế hoạch dàn dựng.

Bà Đỗ Thị Mai Hương thay mặt toàn thể cán bộ nhân viên Nhà sáng tác Nha Trang chào mừng các tác giả kịch bản sân khấu đến với vùng biển Nha Trang hiền hoà, tươi đẹp. Bà khẳng định lãnh đạo Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật luôn quan tâm sâu sát đến công tác tổ chức Trại sáng tác cũng như các lĩnh vực văn học nghệ thuật và nhất là nghệ thuật truyền thống. Bà cũng chúc các tác giả thật nhiều sức khoẻ và có được nhiều kịch bản thành công trong kỳ Trại lần này.

Bế mạc trại sáng tác văn học nghệ thuật Hà Tĩnh tại Đà Lạt

Ngày 14/4/2021, Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức lễ bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật tại Đà Lạt.

Dự buổi bế mạc có Nhà thơ Trần Nam Phong - Chủ tịch hội văn học nghệ thuật Hà Tĩnh; ông Võ Văn Quốc Bình - Giám đốc Nhà sáng tác Đà Lạt; ông Hà Hữu Nết - Phó Chủ tịch phụ trách Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng, đại diện báo Lâm Đồng cùng 18 văn nghệ sỹ tham gia dự Trại sáng tác.

bemachatinht4 2021

Qua thâm nhập thực tế, tham quan các danh lam thắng cảnh như Lang Biang, Rừng hoa Đà Lạt, Thiền viện Trúc lâm, XQ sử quán, mảnh đất Đà Lạt tươi đẹp, con người Đà Lạt hiền hòa, nồng hậu đã mang đến cho các văn nghệ sỹ Hà Tĩnh nhiều cảm xúc. Bằng tinh thần lao động sáng tạo và trách nhiệm, các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đến từ quê hương của Đại thi hào Nguyễn Du đã sáng tác được 57 tác phẩm, gồm 1 truyện ngắn, 3 bút ký, 1 tùy bút, 2 tản văn, 37 thơ, 7 tranh, 11 ảnh nghệ thuật, 4 ca khúc. Có thể kể các tác phẩm tiêu biểu như: Điệu ví trên Lang Biang (Nguyễn Đình Đức), Soi, Đà Lạt phiêu (Đồng Văn Tình), Tiếng rơi (Trần Thị Loan), Nụ hôn tội lỗi (Ngọc Mai)...

Ông Trần Nam Phong - Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Tĩnh nhận định: Trại viết lần này quy tụ được các văn nghệ sĩ ở nhiều thế hệ, nhiều lứa tuổi khác nhau. Từ thế hệ đã chững chạc trong tuổi đời, tuổi nghề từng đi qua thăng trầm năm tháng vẫn tiếp tục say mê sáng tạo như các tác giả: Nguyễn Văn Thanh, Xuân Diệu; đến thế hệ đang đầy nhiệt huyết sức trẻ và khát vọng sáng tạo như Dương Thế Võ, Đăng Đức, Từ Bắc... Trong thời gian ở Trại sáng tác, các văn nghệ sỹ đã cùng nhau trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, học hỏi lẫn nhau kỹ năng sáng tác, trau dồi vốn sống, nâng cao chất lượng tác phẩm, cùng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị về nội dung và tư tưởng, nghệ thuật. Sự tiếp nối giữa các thế hệ sẽ bắc cầu cho phong trào sáng tạo văn học nghệ thuật cảu Hà Tĩnh vươn cao, đi xa.

bemachatinht4 2021 1

Tại buổi bế mạc, nhiều bài thơ đã được ngâm đọc, nhiều ca khúc mới sáng tác dã được trình bày; trong đó, các tác phẩm đều chất chứa tâm hồn, cốt cách của những người con xứ sở núi Hồng sông La thấm đẫm nghĩa tình.

Thay mặt Nhà sáng tác Đà Lạt, ông Võ Văn Quốc Bình đã có bài phát biểu chúc mừng đoàn văn nghệ sỹ của Hội văn học nghệ thuật Hà Tĩnh đã hoàn thành Trại sáng tác với nhiều thành công. Ông chúc các văn nghệ sỹ Hà Tĩnh sẽ tiếp tục phát huy thành công của Trại sáng tác trong các tác phẩm mới, để đạt được những đỉnh cao hơn nữa trong sáng tác.

Subscribe to this RSS feed

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ - TRUNG TÂM HỖ TRỢ SÁNG TÁC VĂN HỌC NGHỆ THUÂT
Địa chỉ : 1A Hoa Lư, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại : 04 39.745.763
Bản quyền thuộc về Trung tâm Hỗ trợ Sáng tác VHNT. Yêu cầu trích nguồn khi đăng tải nội dung từ trang web này